Gần 1h sáng, khi tiết mục cuối cùng trong live stage 2 của Anh trai "say hi" khép lại, các nghệ sĩ thở phào nhẹ nhõm. Họ được ngơi nghỉ trước khi bước vào chặng đấu tiếp theo. Thế nhưng sau cánh gà, nhà sản xuất, ê-kíp truyền thông, social mới thực sự bắt đầu công việc của mình. Thành - bại, viral - flop của một chương trình, phụ thuộc phần lớn ở khâu cuối cùng nhưng rất quan trọng này.
Giữa sự bùng nổ của hàng loạt game show lên sóng cùng lúc trong những tháng cuối năm, cuộc cạnh tranh giữa các nhà sản xuất như DatViet VAC, Yeah1, Forest Studio và Zeit Media, do vậy trở nên gay cấn hơn. Ngoài đầu tư lớn vào sản xuất, hoạt động truyền thông và marketing được các "ông lớn" chú trọng mạnh mẽ để tạo sức hút trên đa nền tảng, không chỉ TV truyền thống, mạng xã hội, mà còn các chiến dịch hợp tác đồng hành với nhãn hàng.
Theo chuyên gia, chi phí truyền thông/marketing cho một game show thực tế hiện tại thường chiếm 20-30% tổng ngân sách sản xuất. Không ít chương trình đã mạnh tay chi hàng tỷ đồng cho truyền thông với kỳ vọng tạo ra một show thực tế ăn khách. Song không phải ông lớn nào cũng thành công dù chơi tất tay.
Ai đang 'rót' tiền mạnh nhất?
Theo khảo sát của Tri Thức - Znews, các show như Running Man Vietnam mùa 3, Anh trai "say hi", Tân binh toàn năng, 2 ngày 1 đêm và Chiến sĩ quả cảm đều sử dụng chiến lược đa kênh: TV ads, viral trên YouTube/TikTok/Facebook, hợp tác KOL/influencer và tài trợ từ nhãn hàng để tối ưu hóa tiếp cận khán giả trẻ (Gen Z và Millennials).
Mỗi chương trình có mức độ đầu tư cho khâu truyền thông/marketing khác nhau. Trong đó, Anh trai "say hi" (DatViet VAC) đang đứng đầu với số tiền dao động 10-15 tỷ đồng/mùa. Trong khi đó, Running Man Vietnam (Forest Studio), 2 ngày 1 đêm (DatViet VAC) hay Tân binh toàn năng (Yeah1), con số này ở mức khoảng 5-10 tỷ đồng/mùa.
Show thực tế Chiến sĩ quả cảm đến từ Zeit Media, do Bộ Công an chỉ đạo sản xuất với hàng trăm nhân sự, chi phí để quảng bá từ 3-7 tỷ đồng.
Theo chuyên gia, các show đến từ DatViet VAC chi hàng tỷ đồng cho truyền thông, marketing.
Ông Phan Lê Khôi, Giám đốc Marketing CTCP Bitexco JSC cho biết so với những chương trình truyền hình trước đây, mức đầu tư sản xuất cho một show thực tế hiện nay cao gấp 2-5 lần, từ hàng chục tỷ đến hàng trăm tỷ đồng. Do vậy, khoản ngân sách cho truyền thông/marketing cũng tỷ lệ thuận.
"Hiện tại, show thực tế cần quay ngoại cảnh, mời dàn nghệ sĩ nổi tiếng với cát-xê hàng trăm triệu đồng. Ngoài ra, các chương trình cũng đầu tư lớn vào công nghệ, kỹ thuật cao như drone, camera đa góc, thay vì studio đơn giản như trước đây. Không chỉ vậy, chiến lược digital, đầu tư mạnh vào mạng xã hội, OTT để cạnh tranh với nội dung quốc tế. Điều này giúp tiếp cận khán giả trẻ, tăng tương tác", ông Phan Lê Khôi nói.
Tương tự, ông Hồng Quang Minh, CEO London & Hong Communications cho hay cuộc đua truyền thông cho game show thực tế giờ đây khốc liệt không kém gì khâu sản xuất. Khác với thời điểm khoảng 10 năm trước - khi mà nội dung một chương trình hay là đủ sức tạo ra hiệu ứng mạnh mẽ, hiện tại, một show thực tế dù format khác biệt, dàn cast nổi tiếng nhưng không được hiện diện cùng lúc trên báo giới, truyền thông, social, rất khó để hút khán giả.
Running Man Vietnam mùa 3 thu hút dàn cast đình đám.
Đơn cử Running Man Vietnam, từ khi công bố khởi động mùa 3, ê-kíp đẩy mạnh truyền thông, PR đồng loạt trên các nền tảng: gồm truyền hình, báo chí, TikTok, Threads, Facebook... Các show đến từ DatViet VAC như Anh trai "say hi" hay 2 ngày 1 đêm có lợi thế sẵn có với hệ sinh thái đa dạng (social network, talent, nghệ sĩ tham gia) tạo hiệu ứng rất nhanh đến khán giả.
"Trước đây, game show truyền hình thường trông cậy vào thời lượng phát sóng truyền hình. Nhưng với sự phát triển như vũ bão của mạng xã hội, thói quen xem các show thực tế của khán giả Gen Z, các nhà sản xuất phải thay đổi chiến lược truyền thông, marketing. Họ không thể trông chờ vào đài truyền hình kéo lượt xem nữa. Ê-kíp phải chủ động dùng từng nền tảng để kể câu chuyện phù hợp. Khán giả trẻ bây giờ cũng muốn được tương tác, meme hóa, làm remix, reaction. Tức là nhà sản xuất không chỉ làm show để chiếu, mà còn phải tạo ra nguyên liệu để khán giả lan truyền giúp. Đây là lý do phần ngân sách truyền thông ngày càng phình to vì cần nuôi cả đội ngũ digital riêng, thậm chí làm những chiến dịch độc lập trước khi show phát sóng", chuyên gia phân tích.
Thành - bại trong cuộc đấu truyền thông
Việc đo lường, đánh giá thành công hay thất bại của một chương trình truyền hình thực tế hiện tại không chỉ căn cứ vào lượt xem trên YouTube hay rating truyền hình như trước.
Theo các chuyên gia, những chỉ số đánh giá hiện tại được tổng hợp trên các dữ liệu từ social media và hiệu quả truyền thông, số nhãn hàng tài trợ cùng hiệu quả ROI (tỷ lệ lợi nhuận trên mức đầu tư) bán bản quyền, quảng cáo.
Trong đó, social media được tính từ hashtag trend, lượng chia sẻ, số lượt nhắc đến trên TikTok, Facebook, X, Threads. Nhiều nhà sản xuất show thực tế dùng công cụ đo như Buzzmetrics, YouNet Media, Social Heat...
Tân binh toàn năng đến từ Yeah1 kém thu hút.
"Về hiệu quả truyền thông, các nhà sản xuất đánh giá dựa trên số lượt bài báo đề cập, đánh giá show. Ngoài ra, nếu số lượng nhãn hàng đầu tư cho mùa tiếp theo tăng lên so với mùa đầu tiên, cũng là khía cạnh để đánh giá thành công của chương trình", theo ông Hồng Quang Minh.
Sự thành công của một show truyền hình thực tế mang lại nguồn lợi khổng lồ cho các nhà sản xuất. Ngoài khoản tiền đầu tư, tài trợ từ các nhãn hàng, thương hiệu, uy tín của nhà sản xuất cũng được củng cố, thăng hạng trên thị trường.
Song không phải nhà sản xuất nào cũng thành công, dù "đốt" hàng chục tỷ đồng cho những show thực tế.
Chuyên gia Phan Lê Khôi cho biết trong trường hợp thất bại, các nhà sản xuất show bắt buộc phải bù lỗ từ quỹ dự phòng hoặc cắt giảm chi phí thực hiện mùa sau. Một vài dự án còn vướng điều khoản "đền truyền thông", tức là không đạt đủ chỉ số cam kết trên hợp đồng như lượt xem, buzz, mức độ hiện diện của nhà tài trợ trong show..., nhà sản xuất chấp nhận bù bằng những quyền lợi khác cho nhãn hàng, đầu tư.
"Rất nhiều rủi ro ập đến khi một chương trình truyền hình thực tế không thành công. Nhà sản xuất mất uy tín với các đơn vị tài trợ, khó khăn để thu hút nhãn hàng ở mùa sau. Chưa kể, nếu nhiều mùa liên tiếp flop, các đơn vị sản xuất còn bị ảnh hưởng tới mối quan hệ với nghệ sĩ vì không ai muốn đặt tên mình vào một show tàng hình", chuyên gia kết luận.
An Anh