Cuộc đối đầu Trump-Harris: Ai thực sự là vị cứu tinh của ngành sản xuất Mỹ?

Cuộc đối đầu Trump-Harris: Ai thực sự là vị cứu tinh của ngành sản xuất Mỹ?
5 giờ trướcBài gốc
Cựu Tổng thống Donald J. Trump đã đề xuất áp thuế cao đối với hầu hết các mặt hàng nhập khẩu nhằm ép buộc các công ty nước ngoài sản xuất hàng hóa tại Hoa Kỳ. Đây là sự leo thang của chiến lược từng thất bại trong nhiệm kỳ của ông. “Chúng ta sẽ chiếm lấy nhà máy của họ,” ông Trump tuyên bố gần đây.
Nhà máy gần Las Vegas của Alliance North America (ANA) sản xuất máy phát điện di động và máy nén khí. Công ty thành lập tại California nhưng chuyển đến Nevada vì chi phí thấp hơn và nguồn lao động dồi dào. Ảnh: Mikayla Whitmore
Trong khi đó, Phó Tổng thống Kamala Harris, xây dựng trên nền tảng chính sách của chính quyền Biden, đã hứa hẹn những khoản tín dụng thuế và chương trình đào tạo nghề nhằm củng cố các thị trấn công nghiệp và đầu tư vào công nghệ tiên tiến. Bà nhấn mạnh rằng những công nghệ này “không chỉ được phát minh tại Mỹ mà còn được sản xuất ở đây.”
Tuy nhiên, sự thật là không một tổng thống nào có thể đơn phương kiểm soát sự phát triển của các ngành công nghiệp cụ thể. Những yếu tố kinh tế lớn hơn như suy thoái và tỷ giá hối đoái thường đóng vai trò quan trọng hơn rất nhiều. Tuy nhiên, một số chính sách có thể hỗ trợ hoặc cản trở quá trình này.
Trong bốn năm qua, các yếu tố chính sách và kinh tế vĩ mô đã cùng nhau định hình lại ngành sản xuất. Dù sự tăng trưởng việc làm đã chững lại trong hai năm gần đây do lãi suất cao làm giảm động lực mở rộng và đồng đô la mạnh làm giảm xuất khẩu, nhưng những thay đổi trong cơ cấu và vị trí của ngành sản xuất đang diễn ra âm thầm.
Trước tiên, một câu hỏi cơ bản hơn: Tại sao các chính trị gia lại quan tâm đến ngành sản xuất đến vậy?
Các nhà kinh tế có thể cho rằng việc làm trong ngành sản xuất có giá trị lớn hơn so với các ngành khác. Các nhà máy thép và nhà máy ô tô trong lịch sử thường trả lương cao hơn so với các công việc trong ngành dịch vụ như bệnh viện hay khách sạn. Sản phẩm của các nhà máy thường được bán ra ngoài cộng đồng, mang lại dòng tiền để tái đầu tư và tăng cường việc làm tại địa phương. Tổng thống Biden thường xuyên vận động dựa trên các luận điểm này, cam kết tái thiết ngành sản xuất để khôi phục tầng lớp trung lưu.
Nhưng thực tế này đang dần thay đổi. Sự suy yếu của các công đoàn và sự tập trung hóa trong ngành đã làm thu hẹp lợi thế lương thưởng của người lao động sản xuất so với những người làm việc trong các ngành khác. Ngành sản xuất không còn là động lực chính của sự thịnh vượng như trước đây.
Tuy vậy, nó vẫn quan trọng vì một lý do khác: bảo đảm nguồn cung nguyên liệu quan trọng như thiết bị quốc phòng và các sản phẩm y tế trong trường hợp bị gián đoạn địa chính trị.
Chính vì vậy, chính quyền Biden đã tài trợ cho việc sản xuất chất bán dẫn và thiết bị năng lượng sạch. Hàng trăm tỷ USD trợ cấp cũng đi kèm với các điều kiện khuyến khích việc làm có tổ chức, lương thưởng tốt và phúc lợi, vì việc tạo ra công ăn việc làm không phải là mục tiêu duy nhất.
Todd Tucker, giám đốc chương trình chính sách công nghiệp và thương mại tại Viện Roosevelt, nhận xét: “Chính sách công nghiệp nên tập trung nhiều hơn vào chất lượng việc làm hơn là số lượng việc làm, và điều này đã được thể hiện qua những thay đổi trong ngôn từ chính trị vài năm qua.”
Các công ty tư nhân đã phản hồi mạnh mẽ đối với Đạo luật Giảm Lạm phát và Đạo luật Khoa học và CHIPS, với 89 tỷ USD đổ vào sản xuất năng lượng sạch và cam kết 400 tỷ USD cho các nhà máy sản xuất chất bán dẫn. Kể từ mùa thu năm 2022, điều này vẫn chưa tạo ra đủ việc làm để bù đắp sự sụt giảm ở các ngành sản xuất khác. Tuy nhiên, có những dấu hiệu cho thấy đầu tư đang chảy về những khu vực thiếu ổn định sau nhiều năm bị tự động hóa và chuyển việc làm ra nước ngoài.
Chính quyền Biden đã thúc đẩy phong trào này bằng cách liên kết khoảng 80 tỷ USD tiền trợ cấp với các khoản đầu tư vào những nơi đã bị thiếu đầu tư. Tuy nhiên, động lực từ khu vực tư nhân cũng đang thúc đẩy xu hướng này khi các công ty tìm cách giảm rủi ro bằng cách rút ngắn chuỗi cung ứng gần hơn với khách hàng Mỹ và cần nguồn lao động và đất đai rộng lớn để thực hiện điều đó.
Các nhà tư vấn chuyên giúp các công ty tìm địa điểm mới thường có cái nhìn sâu sắc về các yếu tố thúc đẩy quyết định của họ. Mặc dù các ưu đãi của liên bang quan trọng, nhưng yếu tố địa phương lại đóng vai trò quan trọng hơn. Khi nhu cầu điện năng tăng cao, các khách hàng công nghiệp cần đảm bảo nguồn cung điện lớn, ổn định. Ngoài ra, họ ngày càng quan tâm đến những bang mà họ sẽ không bị cản trở bởi những vấn đề chính trị hay phản đối của cộng đồng.
Các yếu tố này thường phổ biến hơn ở những bang có khuynh hướng bảo thủ, nơi đã xây dựng các bộ phận chuyên thu hút doanh nghiệp mới bằng ưu đãi thuế và hỗ trợ tìm kiếm địa điểm. Sự dịch chuyển việc làm đang diễn ra theo hướng đó. Tuy nhiên, một yếu tố ít liên quan đến chính trị là nơi mọi người đang di cư đến.
Thay vì dựa vào các yếu tố kỹ thuật khác, ngày càng có nhiều công ty bắt đầu từ việc xác định nơi có người dân di cư đến nhiều nhất. Những bang ở Sun Belt, với chi phí sinh hoạt thấp hơn, đang thu hút thêm nhiều người, và các nhà sản xuất đã bắt đầu chú ý đến điều này.
Ngoài việc mở một cơ sở sản xuất mới, công ty đã chuyển trụ sở chính và đội ngũ điều hành đến Nevada. Công ty duy trì một số kho hàng ở California. Ảnh: Mikayla Whitmore
Nevada là một ví dụ điển hình khi tăng trưởng việc làm sản xuất ở đây đã tăng hơn 13% từ đầu năm 2020 đến tháng 3 năm 2023. Một phần nguyên nhân đến từ chính sách liên bang, khi bang này nhận được khoản tài trợ từ Bộ Thương mại để phát triển ngành khai thác và tinh luyện lithium cũng như sản xuất và tái chế pin.
Nhưng sự mở rộng đã được lên kế hoạch từ đầu những năm 2000, khi Nevada bắt đầu nỗ lực đa dạng hóa nền kinh tế ngoài lĩnh vực dịch vụ và giải trí.
Mặt khác, bang California đã mất khoảng 60.000 việc làm sản xuất kể từ khi đại dịch bắt đầu. Chi phí sinh hoạt cao và các yêu cầu môi trường nghiêm ngặt đã làm tăng thêm gánh nặng cho các nhà sản xuất. Trong khi đó, một số nhà máy lớn vẫn đang được xây dựng với sự hỗ trợ của liên bang, nhưng phần còn lại của ngành công nghiệp sản xuất vẫn đang trong tình trạng trì trệ.
Trước mắt, nhiều công ty đang tạm hoãn đầu tư do lo ngại về kết quả bầu cử. Họ biết rằng kết quả sẽ ảnh hưởng đến chính sách thuế, thương mại, trợ cấp và quy định, nên họ chờ đợi thêm sự rõ ràng trước khi triển khai các kế hoạch mới.
Dũng Phan (Theo The New York Times)
Nguồn Công Luận : https://congluan.vn/cuoc-doi-dau-trump-harris-ai-thuc-su-la-vi-cuu-tinh-cua-nganh-san-xuat-my-post315285.html