Nguyên nhân gây cường giáp khi mang thai
Cường giáp hay còn gọi là tăng năng tuyến giáp, là tình trạng tuyến giáp hoạt động quá mức, dẫn đến gia tăng sản xuất hormone tuyến giáp vào máu gây ra những rối loạn chuyển hóa của cơ thể. Có một số dạng cường giáp nhưng phổ biến nhất là bệnh Graves.
Trong thời gian mang thai, nồng độ hormone HCG tăng nhanh và đạt đỉnh điểm vào khoảng tuần thứ 12 của thai kỳ. Điều này gây kích thích nhẹ tuyến giáp và gây ra một số triệu chứng cường giáp. Nếu bạn mang đa thai thì nồng độ HCG thậm chí còn tăng cao hơn và các triệu chứng sẽ trở nên rõ rệt hơn.
Những phụ nữ mắc phải chứng nôn nghén nặng (hyperemesis gravidarum) cũng có thể có các triệu chứng cường giáp nhẹ. Tuy nhiên, các triệu chứng này thường sẽ biến mất sau tam cá nguyệt thứ nhất - 3 tháng đầu thai kỳ (tuần 1 – 13).
Ngoài nguyên nhân trên, cường giáp ở phụ nữ mang thai còn có thể do:
Rối loạn miễn dịch, ví dụ như bệnh Graves
Gia đình có tiền sử mắc các bệnh về tuyến giáp hoặc các bệnh tự miễn
Một số loại thuốc, chẳng hạn như những loại thuốc điều hòa nhịp tim
Nhiễm trùng gần tuyến giáp
Các vấn đề khác về tuyến giáp như tuyến giáp phình to, sưng do nhiễm trùng hoặc ung thư tuyến giáp gây ra cường giáp
Nồng độ iốt trong cơ thể cao.
Biểu hiện cường giáp ở phụ nữ mang thai
Mỗi phụ nữ mang thai sẽ có những triệu chứng khác nhau nhưng nhìn chung sẽ có các triệu chứng như: giảm cân hoặc không tăng cân như mong đợi, thường xuyên thèm ăn, tiêu chảy hoặc táo bón. Nhịp tim nhanh và thở nhanh, ngay cả khi nghỉ ngơi. Tăng tiết mồ hôi và chịu nóng kém.
Những phụ nữ không thể điều trị với thuốc kháng giáp trạng tổng hợp (dị ứng thuốc) thì phẫu thuật cũng có thể được lựa chọn.
Ngoài ra, phụ nữ mang thai mắc cường giáp có các biểu hiện khác như khối u, sưng đau ở cổ hoặc lồi mắt. Người bệnh có biểu biện lo âu, bồn chồn, mệt mỏi hoặc khó ngủ. Run rẩy và yếu cơ. Tăng huyết áp, đau đầu, buồn nôn và mắt mờ.
Các triệu chứng của cường giáp có thể giống với các bệnh khác. Do đó, hãy đến bác sĩ khám để biết được nguyên nhân chính xác nhất.
Phụ nữ mang thai bị bị cường giáp có ảnh hưởng đến thai nhi không? Thực tế, tình trạng tuyến giáp hoạt động quá mức có thể dẫn đến sinh non (trước 37 tuần) và thai nhẹ cân.
Khoảng 1% số em bé sinh ra từ những phụ nữ mắc bệnh Graves sẽ bị cường giáp. Nguyên nhân là do kháng thể kích thích tuyến giáp có thể được truyền qua nhau thai và ảnh hưởng đến bé. Trước khi sinh, nếu nhịp tim thai cao khi siêu âm thấy có xuất hiện bướu giáp ở thai nhi, thai nhi tăng trưởng kém hoặc xương phát triển bất thường thì đó có thể là dấu hiệu cho thấy thai nhi bị cường giáp. Nếu rơi vào tình huống này thì bác sĩ có thể cho người bệnh dùng thuốc để điều trị cho thai nhi.
Với bà mẹ mang thai, biến chứng thường gặp nhất là tiền sản giật. Ngoài ra, mẹ cũng có thể đối mặt với bão giáp, một biến chứng nghiêm trọng có thể đe dọa đến tính mạng. Đây là tình trạng mà nồng độ hormone tuyến giáp tăng cao đột ngột, dẫn đến sốt, mất nước, tiêu chảy, nhịp tim nhanh và không đều, sốc và thậm chí tử vong nếu không được điều trị kịp thời.
Thai phụ bị cường giáp cần làm gì?
Để xác định thai phụ có bị cường giáp hay không, bác sĩ sẽ xem xét các triệu chứng và xét nghiệm máu để đo nồng độ hormone tuyến giáp. Sau khi xác định được bệnh, bác sĩ sẽ điều trị dựa trên mức độ bệnh.
Tùy vào mức độ cường giáp của người bệnh sẽ được các bác sĩ tư vấn điều trị nội khoa bằng thuốc. Những phụ nữ không thể điều trị với thuốc kháng giáp trạng tổng hợp (dị ứng thuốc) thì phẫu thuật cũng có thể được lựa chọn. Tuy nhiên phẫu thuật cắt tuyến giáp cần được cân nhắc hết sức chặt chẽ vì nguy cơ cao trong gây mê, phẫu thuật cho cả mẹ và thai nhi.
Đối với phụ nữ mang thai mắc cường giáp ngoài việc tuân thủ chỉ định của các bác sĩ cần có chế độ ăn hợp lý, kích thích tuyến giáp lành mạnh gồm: rau cải bó xôi, thịt bò, thịt lợn, các loại hạt, cá hồi, hạt lanh...
Cần tránh thực phẩm giàu Iốt bao gồm: muối iốt, rong biển, tảo bẹ, một số loại hải sản, cà phê,… , các thực phẩm này làm tăng hoạt động của tuyến giáp, khiến bệnh tình tăng nặng.
Khi có biểu hiện bất thường về tuyến giáp cần đến ngay cơ sở y tế để được thăm khám và điều trị.
ThS. BS. Nguyễn Văn Bằng