Trong buổi gặp gỡ với PV Báo Điện tử VTC News, ông Nguyễn Đắc Thoại, đã ngoài 70 tuổi, vẫn nhớ như in buổi sáng 7/2/1979. Khi ấy, ông là mang quân hàm trung sĩ thuộc Trung đoàn 144, đơn vị cảnh vệ hàng không đặc biệt được Bộ Quốc phòng thành lập sau vụ không tặc năm 1977 để bảo vệ an toàn các chuyến bay dân dụng.
“Tôi còn trẻ, mới hơn 20 tuổi, nhưng xác định đã khoác lên mình quân phục thì phải sẵn sàng hy sinh”, ông Thoại mở đầu câu chuyện.
Cựu cảnh vệ Nguyễn Đắc Thoại trong cuộc trò chuyện với Báo Điện tử VTC News.
Lằn ranh sống chết trong khoang máy bay
Chuyến bay số hiệu VN-B226 hôm ấy xuất phát từ Gia Lâm, dừng ở Đà Nẵng rồi bay tiếp vào TP.HCM. Chiếc An-24 Liên Xô cũ chỉ 45 ghế, sau khi hạ cánh ở Đà Nẵng còn khoảng hơn 30 hành khách, đa phần là cán bộ, thương nhân và vài gia đình.
Nguyễn Đắc Thoại mặc thường phục, ngồi lẫn trong đám đông, khẩu K54 giấu trong người. Bên cạnh là các tiếp viên trẻ trung, vẫn nở nụ cười khi phát đồ ăn, chưa biết họ sắp đối diện cơn ác mộng.
“Lúc đó, bầu không khí rất bình thường, nhưng ngay khi tiếp viên vừa đưa suất ăn thì hai người đàn ông từ hàng ghế đầu bật dậy”, ông nhớ lại. Một tên cầm quả lựu đạn màu xanh xám, rút ra từ hộp sữa đặc còn vương vệt sữa, hét lớn: “Ai chống cự, cho nổ tung máy bay!”.
Đồng bọn của hắn cầm hai chai rượu thủy tinh, vung loạn xạ, ra lệnh cho hành khách thắt dây an toàn, chắp tay sau gáy. Không khí trong khoang lập tức rơi vào hỗn loạn. Trẻ con gào khóc, phụ nữ ôm con run rẩy, nhiều người già nước mắt lưng tròng.
Thoại cũng đưa tay giả vờ làm theo, nhưng khéo léo không bấm chốt dây an toàn. Đôi mắt anh khi ấy dán chặt vào quả lựu đạn. Kinh nghiệm rèn luyện cho thấy nó còn nguyên chốt, chưa rút, nghĩa là cơ hội vẫn còn. “Trong đầu tôi lúc ấy chỉ có một suy nghĩ: phải hạ ngay tên cầm lựu đạn, nếu không, tất cả sẽ chết”, ông kể, giọng dứt khoát.
Hình ảnh thời trẻ của cảnh vệ Nguyễn Đắc Thoại.
Thoại bất ngờ rút súng, bóp cò. Tiếng súng nổ vang dội trong khoang hẹp, khói súng sộc vào mũi. Quả lựu đạn rơi xuống sàn, hành khách hét thất thanh. Một người đàn ông - sau này được biết anh từng là bộ đội - không quản hiểm nguy, cúi nhặt, kịp vô hiệu hóa.
Tuy nhiên ngay lập tức, tên đồng bọn lao đến, vung chai rượu đập mạnh vào đầu Thoại. Chai vỡ tung, máu chảy loang đỏ khuôn mặt anh. Thoại lảo đảo, mắt hoa lên vì máu tràn vào mi, nhưng vẫn cố gượng. Tên không tặc chuẩn bị cú đánh thứ hai thì một nữ tiếp viên trẻ lao tới, che chắn cho anh.
Máu đỏ thẫm áo sơ mi, nhưng ngón tay Thoại vẫn siết chặt cò súng. Viên đạn tiếp theo găm trúng kẻ cầm chai rượu, hắn đổ gục ngay lối đi.
Một tên khác lao tới, quật Thoại ngã xuống sàn. Người cảnh vệ hàng không năm xưa hồi tưởng: “Tôi chỉ còn đủ sức dùng cùi chỏ thúc mạnh, giằng ra và bắn hạ. Lúc đó, tôi không nghĩ đến sợ hãi, chỉ nghĩ phải tiêu diệt chúng để bảo vệ hành khách”. Lần lượt, hai tên không tặc tiếp theo bị bắn hạ.
Ký ức về chuyến bay định mệnh vẫn vẹn nguyên trong tâm trí cựu cảnh vệ Nguyễn Đắc Thoại.
Trong khoang, nhiều hành khách sợ hãi đến tê dại, có người gục xuống ghế, có người quỳ xuống cầu nguyện. Các tiếp viên, dù run rẩy, vẫn lao đi hỗ trợ, người băng bó, người che chắn, người trấn an hành khách.
Khi tiếng súng cuối cùng vang lên, mọi thứ chìm vào im lặng đặc quánh. Nguyễn Đắc Thoại, đầu bê bết máu, đứng ở vị trí thuận lợi quan sát tình hình, giương súng trấn an: “Không tặc đã bị tiêu diệt. Mọi người ngồi yên, máy bay an toàn”. Giọng anh trầm nhưng cương quyết. Nhiều hành khách chuyền tay nhau chiếc khăn trắng cho nữ tiếp viên để băng tạm vết thương cho người lính trẻ.
Trong khoảnh khắc, không khí trong khoang máy bay như an lành trở lại. Và rồi, chiếc AN24 vẫn tiếp tục bay, mang theo hơn ba chục con người vừa thoát khỏi lưỡi hái tử thần.
Điều chưa biết sau ánh hào quang
Khi máy bay hạ cánh, lực lượng an ninh đã chờ sẵn. Ngoài 4 tên không tặc đã bị tiêu diệt, một kẻ khả nghi ở hàng ghế đầu bị bắt. Sau này, cơ quan điều tra xác định đó chính là Sơn - sĩ quan không quân của chế độ cũ, đồng phạm trong kế hoạch cướp máy bay bỏ trốn. Hắn lĩnh án 15 năm tù. Một phụ nữ đi cùng nhóm, mang hộp sữa chứa lựu đạn và dao găm, cũng sa lưới.
Nguyễn Đắc Thoại được đưa thẳng vào bệnh viện, đầu chấn thương nặng. “Khi đó tôi gần như mất máu nhiều, nhưng nghĩ lại vẫn thấy mình may mắn, vì hành khách đều an toàn”, ông kể.
Ông Nguyễn Đắc Thoại được cử đi học tại Liên Xô.
Chỉ hai tháng sau, vết thương chưa kịp lành hẳn, ông trở lại với nhiệm vụ. “Lực lượng mỏng, chuyến bay nhiều, nếu tôi nghỉ lâu thì đơn vị thiếu người”, ông giải thích.
Với chiến công đặc biệt, Nguyễn Đắc Thoại được phong vượt cấp quân hàm từ trung sĩ lên thiếu úy, được tặng Huân chương Chiến công. Ông tâm sự, vinh quang cũng đồng nghĩa với áp lực: “Người ta gọi mình là anh hùng thì phải sống sao cho xứng đáng. Tôi thấy áp lực nhất là chỗ đó”.
Sau này, ông được cử đi học tại Liên Xô, trở về công tác ở Vietnam Airlines. Có thời gian làm quản lý kho, có khi lại phụ trách dịch vụ trên không, ông luôn chọn cách sống lặng lẽ, tránh ồn ào.
Vết thương cũ trái gió trở trời lại đau nhức, nhưng ông chỉ cười: “Đó là một phần của đời lính”. Gia đình ông tự hào, đồng đội yêu mến, còn bản thân ông luôn chọn lối sống khiêm nhường, giản dị.
Cựu cảnh vệ khiêm tốn không coi hành động năm đó của bản thân là chiến công mà chỉ là nhiệm vụ cần phải hoàn thành của một người lính.
Trước khi phim Tử chiến trên không được khởi quay, đạo diễn tìm gặp ông, nghe ông kể lại từng chi tiết để xây dựng kịch bản, trong đó nhân vật Bình do Thanh Sơn thủ vai được dựa theo hình mẫu cựu cảnh vệ Nguyễn Đắc Thoại. Ngày phim ra mắt, ông ngồi lặng lẽ ở hàng ghế khán giả, ký ức ùa về.
“Tôi xem phim thấy đúng tinh thần, phần nào lột tả hết sự khốc liệt trong khoang máy bay hôm đó. Dù vậy, tôi vui vì lớp trẻ hôm nay biết đến câu chuyện, hiểu rằng cái chết và sự sống có khi chỉ cách nhau tích tắc”, ông nhận xét.
Ở tuổi xế chiều, ông vẫn gửi gắm niềm tin đến thế hệ trẻ: “Các bạn trẻ có nhiều điều kiện hơn chúng tôi ngày trước. Tôi tin, nếu gặp tình huống tương tự, các bạn cũng sẽ dũng cảm, quyết đoán, bảo vệ đồng bào như chúng tôi ngày ấy”.
Chuyến bay VN-B226 lùi xa hơn bốn thập kỷ, nhưng tinh thần người lính cảnh vệ năm xưa vẫn còn nguyên sức lay động. Không chỉ là một chiến công, đó còn là minh chứng cho ý chí thép và lòng quả cảm của con người Việt Nam trước hiểm nguy.