Cần thiết lập một hệ thống công cụ hỗ trợ hiệu quả cho các doanh nghiệp Việt đầu tư ra nước ngoài. Ảnh: Đức Thanh
Tác động từ gỡ rào cản hành chính
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã cải thiện năng lực, trở thành doanh nghiệp đa quốc gia khi đầu tư ra nước ngoài. Luật sư Nguyễn Hồng Chung, chuyên gia chính sách đầu tư, Tổng giám đốc điều hành DVL Ventures đặt vấn đề này khi tiếp cận đề xuất mới của Bộ Tài chính xung quanh quy định về đầu tư ra nước ngoài.
“Đề xuất bỏ giấy phép và thay bằng cơ chế đăng ký - hậu kiểm cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài sẽ là một cải cách thể chế mạnh mẽ, mang lại nhiều tác động tích cực”, ông Chung bày tỏ quan điểm.
Điểm rõ nhất là giảm rào cản hành chính. Theo phương án Bộ Tài chính đề xuất, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài thuộc thẩm quyền của Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ, thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài thuộc thẩm quyền của Bộ Tài chính sẽ được bãi bỏ. Nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư ra nước ngoài sẽ đăng ký với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc chuyển tiền ra nước ngoài.
Như vậy, rất nhiều thủ tục hành chính sẽ được bãi bỏ, chi phí tuân thủ sẽ giảm đáng kể, vì Luật Đầu tư đang quy định phạm vi quản lý của cơ quan cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài khá rộng, bao quát toàn bộ hoạt động đầu tư ở nước ngoài (mục tiêu, quy mô, địa điểm, phạm vi hoạt động, tổng vốn đầu tư…).
Ông Chung phân tích, các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa, có thể triển khai nhanh các dự án ở nước ngoài, mà không mất thời gian chờ phê duyệt kéo dài. Điều này cho phép doanh nghiệp chớp thời cơ tại thị trường quốc tế, đặc biệt ở các lĩnh vực cần quyết định nhanh như thương mại, dịch vụ, công nghệ.
Vấn đề là, việc quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài sẽ thực chất hơn. Trong giải trình phương án lựa chọn, Ban Soạn thảo của Bộ Tài chính làm rõ, khi nhà đầu tư đăng ký với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, nhà đầu tư đã có tài liệu chấp thuận đầu tư của nước ngoài (gồm giấy phép đầu tư, giấy chứng nhận thành lập doanh nghiệp, hợp đồng góp vốn hay mua cổ phần vào công ty nước ngoài…). Khi đó, hoạt động đầu tư đã “chắc chắn” hơn và “xác thực” hơn.
Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ nhanh chóng thống kê và kiểm tra được tình hình thực hiện vốn đầu tư và tình hình chuyển tiền về nước thông qua hệ thống ngân hàng để có đánh giá và điều chỉnh kịp thời khi có ảnh hưởng đối với cán cân thanh toán, dự trữ ngoại hối. Hơn thế, hệ thống ngân hàng có công cụ xử lý kịp thời đối với các trường hợp không tuân thủ quy định về chế độ báo cáo (như tạm dừng cho phép chuyển tiền, phong tỏa tài khoản vốn đầu tư trong trường hợp khẩn cấp...).
Doanh nghiệp Việt phải bước ra ngoài
Ông Phan Hữu Thắng, Chủ tịch Liên chi hội Tài chính Khu công nghiệp Việt Nam (VIPFA) nhắc đến Viettel, Vinamilk, TH Truemilk, FPT… như những điểm sáng của dòng vốn đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam, bên cạnh các tập đoàn kinh tế nhà nước vốn là những doanh nghiệp đi đầu trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
“Không ai nghĩ doanh nghiệp Việt lại đầu tư nhà máy chế biến sữa ở châu Âu. Cũng không thể chia sẻ hết cảm xúc khi nhìn thấy người dân nhiều quốc gia dùng mạng di động của Viettel như là sự lựa chọn tất yếu. Đã đến lúc, doanh nghiệp Việt phải bước ra ngoài, trở thành những nhà đầu tư nước ngoài ở các quốc gia, các thị trường trên thế giới”, ông Thắng chia sẻ.
Sự sôi động và cơ hội từ thị trường thế giới đang sắp xếp lại sau những biến động về chính sách thuế quan, xu hướng phát triển mới…, cùng với sự lớn lên của các doanh nghiệp Việt Nam khiến ông Thắng đang rất quan tâm đến các kế hoạch đầu tư ra nước ngoài.
Thậm chí, bước đi này đang được coi là sự chủ động cần khuyến khích để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu, tìm kiếm cơ hội nhập khẩu công nghệ, phát triển thị trường mới, tìm kiếm khách hàng… Tuy nhiên, ông Thắng cho rằng, rào cản trên con đường đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam không hẳn là thị trường, là năng lực của doanh nghiệp, mà có phần không nhỏ từ thủ tục.
Về cơ bản, doanh nghiệp tư nhân sử dụng vốn của mình để thực hiện đầu tư ra nước ngoài phải tuân thủ các quy định pháp luật tại nước sở tại. Tuy nhiên, theo quy định tại Luật Đầu tư, cơ quan nhà nước Việt Nam lại phê duyệt nhiều nội dung về dự án, như hình thức, quy mô, địa điểm, tiến độ thực hiện dự án đầu tư, vốn đầu tư ra nước ngoài, nguồn vốn.
Trong các cuộc làm việc, nhiều doanh nghiệp băn khoăn rằng, những nội dung đó thuộc thẩm quyền điều chỉnh của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nên việc phê duyệt của phía Việt Nam không có nhiều ý nghĩa. Thậm chí, ông Thắng cho rằng, sự thận trọng này khiến doanh nghiệp khó linh hoạt trong nắm bắt thời cơ kinh doanh.
Thực tiễn cho thấy, nhiều nước trên thế giới chỉ thực hiện chế độ kiểm soát dòng tiền chuyển ra nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư và có chính sách cấm hoặc hạn chế chuyển tiền ra nước ngoài trong một số trường hợp nhất định, để đảm bảo cân đối vĩ mô, cũng như tính hợp pháp của nguồn tiền, mà không quản lý toàn bộ hoạt động đầu tư ở nước ngoài.
Đến thời điểm này, chỉ còn Việt Nam, Lào còn cấp giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài. Trung Quốc có cấp giấy này, nhưng nới lỏng, chỉ quản lý các dự án lớn và một số lĩnh vực. Các quốc gia khác đã chuyển sang cơ chế nhà đầu tư kê khai, đăng ký vốn đầu tư chuyển ra nước ngoài với hệ thống ngân hàng khi thực hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh ở nước ngoài.
Theo đánh giá của các chuyên gia quốc tế, dòng vốn đầu tư ra nước ngoài có thể đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển, cũng như sự tăng trưởng của một quốc gia đang phát triển. Thông qua dòng vốn này, nước đầu tư có thể mở rộng thị trường xuất khẩu và tiêu thụ sản phẩm, tạo ra nhiều cơ hội phát triển cho các doanh nghiệp của mình.
Tất nhiên, không phải mọi dòng vốn đầu tư ra nước ngoài đều thành công, đưa lợi nhuận về nước, song ông Thắng cho rằng, cần đổi mới tư duy và nhận thức, phải coi đầu tư ra nước ngoài là một bộ phận quan trọng trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia. Cùng với việc hoàn thiện thể chế, chính sách liên quan đến đầu tư ra nước ngoài, Chính phủ cần xây dựng và sớm công bố Đề án Chiến lược đầu tư ra nước ngoài hoàn chỉnh và toàn diện cả về ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Đặc biệt, một hệ thống công cụ hỗ trợ hiệu quả cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư ra nước ngoài cần được thiết lập, như xúc tiến tìm kiếm trị trường thông qua tổ chức xúc tiến thương mại, đầu tư, các cơ quan ngoại giao ở nước ngoài; hỗ trợ tài chính để triển khai các dự án đầu tư nước ngoài…
Hơn 1.900 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực
Tính đến hết tháng 6/2025, Việt Nam đã có 1.916 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư Việt Nam hơn 23 tỷ USD. Trong đó, theo thống kê, đa phần là dự án có quy mô vốn đầu tư dưới 20 tỷ đồng, chiếm tới 67,4% tổng số dự án, nhưng có tỷ lệ nhỏ về vốn (khoảng 1,7% tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài); số dự án có vốn đầu tư trên 20 tỷ đồng chiếm khoảng 28% tổng số dự án, nhưng chiếm phần đa về vốn (khoảng 98,3% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài); số còn lại là các dự án nhỏ dưới 1,2 tỷ đồng (tương đương 50.000 USD).
Những dự án này đều thuộc diện chấp thuận chủ trương của Thủ tướng Chính phủ, hoặc cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài. Đến nay, chưa ghi nhận có dự án đầu tư ra nước ngoài thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội.
Khánh An