Tính đến cuối tháng 11 vừa qua, tăng trưởng tín dụng ghi nhận mức khá mạnh, đạt gần 16,6%. Tuy nhiên, chất lượng của tăng trưởng này vẫn là một dấu hỏi lớn, theo báo cáo mới nhất từ CTCP chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội (SHS).
Đơn cử, ngành ngân hàng đã triển khai chủ trương cơ cấu lại nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư 02/2023, sau đó tiếp tục gia hạn bằng Thông tư 06/2023.
“Cách làm này giống như mua thêm thời gian, giúp doanh nghiệp có cơ hội hồi phục và ngân hàng tránh phải đẩy nợ ra ngoại bảng ngay lập tức. Nhưng đổi lại, sự lệch pha kỳ hạn trên bảng cân đối của toàn hệ thống ngày càng rõ”, báo cáo chỉ rõ.
Ở phía tài sản, nhiều khoản vay bị kéo dài thời hạn, trong khi phía nguồn vốn lại có xu hướng ngắn lại. Sự chênh lệch ấy tích tụ dần, âm thầm bào mòn biên lãi ròng của hệ thống.
Việc cơ cấu nợ kéo dài cùng chênh lệch kỳ hạn đã kéo theo rủi ro thanh khoản gia tăng. Bằng chứng là khi nhiều khoản cho vay có kỳ hạn dài hơn, ngân hàng buộc phải tăng huy động vốn trung và dài hạn để đảm bảo các tỷ lệ an toàn.
Thực tế đã cho thấy điều này khi cuộc đua huy động kỳ hạn 12 đến 36 tháng đã nóng hơn khi lãi suất tiền gửi được nâng lên.
Trong thời gian ngắn hạn tới, báo cáo của SHS cho rằng không ít nhà băng sẽ phải kiềm chế tốc độ tăng trưởng tín dụng hoặc gia tăng vốn tự có để đáp ứng chuẩn mực Basel III theo Thông tư 14 có hiệu lực vào tháng 9/2025.
Lãi suất huy động tiền gửi kỳ hạn 12 đến 36 tháng đã được nâng lên vài tháng gần đây. Ảnh: Hoàng Anh
Bên cạnh vấn đề tín dụng, mức biên lãi ròng cao của ngân hàng phải đánh đổi bằng chi phí vốn lớn hơn khi tiền gửi không kỳ hạn suy giảm, từ đó buộc phải dựa nhiều hơn vào tiền gửi có kỳ hạn với lãi suất cao hoặc vay mượn trên thị trường liên ngân hàng nhằm đáp ứng thanh khoản.
Kết quả này đến từ những thay đổi trong chính sách thuế với hộ kinh doanh khiến nhiều hộ kinh doanh chuyển sang chỉ nhận tiền mặt, từ chối thanh toán chuyển khoản.
Về xử lý nợ xấu, Nghị quyết 42 năm 2017 đã chính thức được Quốc hội luật hóa vào tháng 6/2025, trao cho các tổ chức tín dụng công cụ mạnh hơn trong việc thu giữ tài sản bảo đảm và xử lý nợ xấu.
Những điểm hiệu quả nhất của Nghị quyết 42 như quyền thu giữ tài sản bảo đảm hay bán nợ xấu theo giá thị trường đều được kế thừa, qua đó tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình thu hồi nợ.
“Tuy vậy, thực tế cho thấy “phép màu” chỉ xuất hiện khi luật được thực thi quyết liệt. Việc xử lý nợ xấu tại Việt Nam vẫn vướng nhiều nút thắt quen thuộc, từ thủ tục tòa án kéo dài, thiếu nhân lực thi hành án ở địa phương, đến việc định giá tài sản bảo đảm chưa sát thị trường, quy trình đấu giá rườm rà và tâm lý dè dặt của bên mua nợ”, báo cáo lưu ý.
Do đó, cần một cơ chế giám sát độc lập đối với quá trình xử lý tài sản, nhằm đảm bảo tính minh bạch trong định giá và cân bằng quyền lợi giữa bên cho vay và bên đi vay. Nếu không, tranh chấp và kiện tụng rất dễ trở thành lực cản đối với mục tiêu làm sạch bảng cân đối của ngân hàng.
Giảm bớt dòng chảy tín dụng khỏi bất động sản
Một yếu tố quan trọng cần được nhắc tới, ảnh hưởng lớn tới hoạt động của các ngân hàng đó là tỷ trọng tín dụng chảy vào bất động sản.
Những tháng cuối năm 2025, tại nhiều hội thảo lớn, câu hỏi được nhắc lại không ít lần là liệu năm 2026 ngành ngân hàng có lộ trình cụ thể giảm dần tỷ trọng tín dụng bất động sản trong tổng dư nợ hay không?
Theo chuyên gia SHS, đây là vấn đề mang tính hệ trọng, vì vậy nhà điều hành cần truyền thông rõ ràng và nhất quán.
Một kịch bản tích cực là công bố lộ trình trong 3 đến 5 năm để đưa tỷ trọng tín dụng bất động sản về mức an toàn hơn, chẳng hạn mỗi năm giảm 1 đến 2%, đồng thời khuyến khích dòng vốn chảy sang lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, đặc biệt là khoa học công nghệ
Việc định hướng tín dụng vào công nghệ cao và đổi mới sáng tạo sẽ giúp nâng năng suất của nền kinh tế, tạo nền tảng cho tăng trưởng dài hạn. Tuy nhiên, để dòng vốn này thực sự vận hành, không thể chỉ dựa vào tín dụng ngân hàng truyền thống.
Cần phát triển mạnh hơn các kênh vốn cổ phần, vốn mạo hiểm, quỹ đồng đầu tư và cơ chế bảo lãnh rủi ro, qua đó chia sẻ rủi ro với ngân hàng và cho phép vốn dám đi vào những dự án công nghệ mới, vốn nhiều rủi ro nhưng cũng giàu tiềm năng.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy tại Đức, khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp tới 35% chi tiêu nghiên cứu và phát triển của toàn nền kinh tế, với nhiều doanh nghiệp trở thành những “hidden champions” dẫn dắt đổi mới.
Muốn đi theo con đường đó, các doanh nghiệp công nghệ nhỏ và vừa phải tiếp cận được vốn cổ phần và sự hỗ trợ của các quỹ đầu tư, thay vì chỉ dựa vào nợ vay, điều mà Việt Nam cần thúc đẩy thông qua các chính sách như ưu đãi thuế cho quỹ khởi nghiệp hay chương trình matching fund.
Phương Anh