Về duy trì mức sinh thay thế, đại biểu Tô Văn Tám (Đoàn Quảng Ngãi) cho biết, theo điểm b khoản 1 Điều 13 có 3 đối tượng được hỗ trợ tài chính: Phụ nữ dân tộc thiểu số, phụ nữ dân tộc ít người; phụ nữ sinh đủ hai con trước 35 tuổi; phụ nữ ở địa phương có mức sinh thay thế thấp.
Đại biểu Tô Văn Tám. (Ảnh: DUY LINH)
Theo ông, quy định chỉ hỗ trợ phụ nữ sinh đủ hai con trước 35 tuổi là chưa thật sự hợp lý và công bằng, tạo ra sự phân biệt đối với những người sinh đủ hai con sau tuổi 35 bởi nhiều phụ nữ sinh con sau 35 tuổi không phải do chủ ý mà vì nhiều nguyên nhân khách quan như điều kiện kinh tế, áp lực công việc, sự nghiệp, hoàn cảnh cá nhân hoặc do chưa tìm được bạn đời phù hợp... Họ vẫn hoàn thành trách nhiệm sinh đủ hai con nhưng lại không được hưởng chính sách hỗ trợ, điều này là chưa công bằng và thiếu tính toàn diện.
“Cần hệ thống lại quy định cho đồng bộ hơn, theo hướng hỗ trợ phụ nữ sinh đủ hai con ở tất cả các độ tuổi. Hơn thế nữa, cần chính sách bảo vệ sức khỏe bà mẹ, trẻ em, hỗ trợ các dịch vụ bảo đảm quyền bình đẳng trong lao động và việc làm”, đại biểu đề xuất.
Ngoài ra, ông đề xuất có thể giao quyền cho địa phương quy định cụ thể đối tượng và mức hỗ trợ tùy theo điều kiện thực tế, thay vì ấn định cứng theo độ tuổi.
Về biện pháp duy trì mức sinh thay thế, đại biểu nhận định các quy định hiện nay mới tập trung vào trách nhiệm của cơ quan nhà nước. Ông đề nghị nghiên cứu, mở rộng chủ thể tham gia, khuyến khích các tổ chức kinh tế cùng chung tay thực hiện chính sách dân số.
“Trên thực tế, nhiều phụ nữ nuôi con nhỏ không dám nghỉ việc vì áp lực thu nhập”, đại biểu nêu thực tế và cho rằng, doanh nghiệp nên có trách nhiệm hỗ trợ, tạo điều kiện để người lao động thực hiện tốt chính sách này.
Chính sách nghỉ thai sản cần hướng đến sự linh hoạt hơn
Liên quan quy định tăng thời gian nghỉ thai sản thêm 1 tháng cho phụ nữ khi sinh con thứ hai, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga (Hải Phòng) nhất trí với việc cần có thêm chính sách ưu việt hơn đối với phụ nữ mang thai và phụ nữ nuôi con nhỏ.
Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga. (Ảnh: DUY LINH)
Tuy nhiên, đại biểu cũng nêu một số khía cạnh cần được cân nhắc kỹ lưỡng. Cụ thể, khi kéo dài thời gian nghỉ thai sản đối với lao động nữ, các doanh nghiệp sẽ có xu hướng e ngại tuyển hoặc bố trí lao động nữ vào các vị trí quan trọng do lo ngại gián đoạn công việc và những chi phí phát sinh khác.
"Quy định này có thể vô tình trở thành rào cản đối với lao động nữ và làm gia tăng nguy cơ phân biệt đối xử về giới trong tuyển dụng và sử dụng lao động nữ", đại biểu phân tích.
Bên cạnh đó, đối với nhóm phụ nữ hiện nay có xu hướng coi trọng sự nghiệp, đặc biệt là nhóm lao động trẻ, lao động chất lượng cao, chính sách tăng thời gian nghỉ thai sản có thể tạo tâm lý e ngại sinh con, đặc biệt là sinh con thứ hai, do sự lo lắng rằng việc vắng mặt dài hơn sẽ ảnh hưởng đến cơ hội thăng tiến, đánh giá hiệu quả công việc hoặc vị trí của người phụ nữ trong cơ quan, trong doanh nghiệp.
Vì vậy, đối với biện pháp tăng thời gian nghỉ thai sản, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga đề nghị nên có quy định mở, có sự phân biệt giữa các nhóm nghề, ngành, khu vực trước khi áp dụng. Đồng thời, cần song song bổ sung các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp, giảm chi phí sử dụng lao động nữ cũng như có chính sách bảo đảm cơ hội thăng tiến bình đẳng cho phụ nữ sau khi nghỉ thai sản.
Mặt khác, thay vì chỉ tập trung kéo dài thời gian nghỉ thai sản cho phụ nữ, cần mở rộng các chính sách hỗ trợ thực chất hơn để giảm gánh nặng cho phụ nữ trong việc sinh con và chăm sóc con nhỏ. Chẳng hạn như phát triển hệ thống nhà trẻ, cơ sở trông giữ trẻ từ 6 tháng tuổi, tạo điều kiện để phụ nữ quay trở lại công việc sớm hơn nếu như họ có nhu cầu.
Ngoài ra, đại biểu cho rằng cần thay đổi tư duy trong xây dựng chính sách, nên quy định vợ hoặc chồng đều có thể nghỉ dài ngày để chăm sóc con mới sinh, thay vì chỉ quy định phụ nữ nghỉ dài như hiện nay. "Có thể xem xét cơ chế linh hoạt, trong đó tổng thời gian nghỉ của cả hai vợ chồng không quá 7 hoặc 8 tháng tùy gia đình lựa chọn và phân bố. Cách tiếp cận này vừa bảo đảm trẻ được chăm sóc, vừa thúc đẩy sự chia sẻ trách nhiệm giữa cha và mẹ, giảm áp lực cho phụ nữ giai đoạn sau sinh", đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga nói.
Đại biểu Nguyễn Hoàng Uyên. (Ảnh: DUY LINH)
Tiếp nối quan điểm này, đại biểu Nguyễn Hoàng Uyên (Tây Ninh) đề nghị rà soát quy định về chính sách hỗ trợ khuyến khích sinh đủ hai con theo hướng linh hoạt, phù hợp với thực tiễn, bảo đảm tính khả thi.
Đồng thời, bổ sung một số chính sách mang tính bền vững, thiết thực như hỗ trợ phát triển hệ thống dịch vụ trông giữ trẻ, giáo dục mầm non công lập và ngoài công lập bảo đảm chất lượng. Theo đại biểu, đây là giải pháp căn cơ giúp giảm gánh nặng chăm sóc con nhỏ cho các gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ, đặc biệt là lao động nữ sớm quay lại thị trường lao động.
Về chính sách giảm thuế thu nhập cá nhân cho gia đình sinh đủ hai con, đại biểu Nguyễn Hoàng Uyên nêu rõ, đây là hình thức hỗ trợ trực tiếp có tính khuyến khích cao và phù hợp với xu hướng chính sách tại một số quốc gia đang đối mặt với tỷ suất sinh thấp. Chính sách này không chỉ hỗ trợ tài chính mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ yên tâm sinh và nuôi dạy con, góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu dân số.
Cần có biện pháp hỗ trợ các cặp vợ chồng hiếm muộn, gặp khó khăn trong việc sinh con
Liên quan đến vấn đề bệnh nhân vô sinh có xu hướng tăng, đại biểu Nguyễn Anh Trí (Hà Nội) cho biết, hiện cả nước có khoảng 1 triệu người vô sinh, đây là con số rất lớn, trong khi chi phí điều trị rất cao và phạm vi chi trả bảo hiểm y tế còn hạn chế.
Đại biểu Nguyễn Anh Trí. (Ảnh: DUY LINH)
Chính vì vậy, đại biểu đề nghị bổ sung quy định hỗ trợ điều trị vô sinh tại Điều 14 của dự thảo luật, trong đó nhấn mạnh việc khuyến khích thanh toán bảo hiểm y tế cho dịch vụ chẩn đoán và điều trị vô sinh, nhất là tại các địa phương có mức sinh thấp hơn mức sinh thay thế.
“Đây là một chính sách nhân văn, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc đồng hành cùng các cặp vợ chồng hiếm muộn, góp phần duy trì ổn định mức sinh quốc gia”, đại biểu Nguyễn Anh Trí nhấn mạnh.
Đồng tình với đề xuất trên, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga (Hải Phòng) cũng cho rằng hỗ trợ vô sinh cần được xem là một cấu phần quan trọng trong chính sách dân số hiện đại. Theo đại biểu, vô sinh, hiếm muộn không còn là hiện tượng hiếm gặp và đang có xu hướng trẻ hóa. “Duy trì mức sinh thay thế không thể chỉ nói đến những người ‘đang sinh ít’, mà còn phải quan tâm tới những người ‘muốn sinh nhưng không thể sinh’,” đại biểu bày tỏ.
Cùng với đó, đại biểu đề xuất các chính sách hỗ trợ tài chính, kỹ thuật và tư vấn tâm lý cho các cặp vợ chồng vô sinh; đồng thời giảm kỳ thị xã hội đối với việc điều trị hiếm muộn, xem đây là vấn đề y tế bình thường, cần được chia sẻ và hỗ trợ như các bệnh lý khác. “Hỗ trợ vô sinh không chỉ giúp duy trì dân số mà còn thể hiện sự nhân ái, nhân văn của Nhà nước trong bảo vệ quyền làm cha, làm mẹ của công dân,” đại biểu nêu rõ.
VĂN TOẢN