Góp ý về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam, đại biểu Đỗ Thị Việt Hà (Đoàn Bắc Giang) nhất trí cao về sự cần thiết ban hành Luật với các cơ sở chính trị, pháp lý, thực tiễn. Tuy nhiên, để góp phần hoàn thiện dự án Luật, đại biểu đề nghị quy định rõ thời gian cơ quan tiếp nhận “thông báo ngay” để người xin nhập quốc tịch Việt Nam bổ sung, hoàn chỉnh hồ sơ.
Đại biểu Đỗ Thị Việt Hà thảo luận tại hội trường.
Đại biểu nêu, tại điểm b, khoản 6, Điều 1 dự thảo Luật sửa đổi bổ sung khoản 1, Điều 23 quy định “cơ quan tiếp nhận thông báo ngay để người xin nhập quốc tịch Việt Nam bổ sung, hoàn chỉnh hồ sơ” mà không quy định rõ “ngay” ở đây là trong ngày, 1 ngày, 2 ngày hay 3 ngày. Thủ tục nhập quốc tịch Việt Nam là một thủ tục hành chính, việc tiếp nhận, hướng dẫn hoàn thiện hồ sơ cùng với việc căn cứ quy định của pháp luật chuyên ngành còn căn cứ vào các quy định liên quan đến tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính, đặc biệt là về thời gian tiếp nhận, hướng dẫn, hoàn thiện bổ sung hồ sơ.
Trên cơ sở đó, theo đại biểu chỉ cần quy định cơ quan tiếp nhận có trách nhiệm “thông báo” để người xin nhập quốc tịch Việt Nam bổ sung, hoàn chỉnh hồ sơ; còn việc hướng dẫn, thời hạn đề nghị hoàn thiện, bổ sung hồ sơ cụ thể thì tuân thủ theo quy định liên quan đến tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính.
Bên cạnh đó, đại biểu đề nghị cần quy định rõ hơn điều kiện “có thể được trở lại quốc tịch Việt Nam”. Tại điểm b, khoản 7, Điều 1 dự thảo Luật sửa đổi bổ sung khoản 1, Điều 23 quy định về điều kiện được trở lại quốc tịch Việt Nam, trong đó quy định “1. Người đã mất quốc tịch việt Nam theo quy định tại Điều 26 của Luật này có đơn xin trở lại quốc tịch Việt Nam thì có thể được trở lại quốc tịch Việt Nam”. Việc sử dụng cụm từ “có thể” dẫn đến cách hiểu cảm tính; không phù hợp với tên Điều là “điều kiện được trở lại quốc tịch Việt Nam”. Do vậy, đại biểu đề nghị xem xét, sửa đổi theo hướng quy định cụ thể các điều kiện “có thể” được trở lại quốc tịch Việt Nam ngay trong Luật hoặc sửa đổi theo hướng thay thế cụm từ “có thể” bằng cụm từ “được xem xét, quyết định”.
Đại biểu đề nghị rà soát, bảo đảm thống nhất trong giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam với các quy định của pháp luật liên quan. Về giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam, khoản 2 Điều 1 dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung khoản 2, Điều 11 Luật Quốc tịch quy định “Giấy chứng minh nhân dân, căn cước công dân, thẻ căn cước, căn cước điện tử” theo đó giữ nguyên giấy tờ là Giấy chứng minh nhân dân như Luật năm 2008 đang quy định, đồng thời bổ sung thêm 3 loại căn cước. Tuy nhiên theo Điều 46, Luật Căn cước thì đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2024 chứng minh nhân dân đã hết hạn sử dụng, do đó, cần đánh giá việc quy định giữ nguyên giấy tờ là Giấy chứng minh nhân dân như Luật năm 2008 để chứng minh quốc tịch Việt Nam có phù hợp hay không?
Đại biểu cũng đề nghị tiếp tục rà soát quy định của điều khoản chuyển tiếp (Điều 3) để bảo đảm đầy đủ và thống nhất trong quá trình áp dụng. Tại Điều 3 quy định Điều khoản chuyển tiếp chỉ bao gồm nội dung “Hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam, xin trở lại quốc tịch Việt Nam, xin thôi quốc tịch Việt Nam tiếp nhận trước thời điểm luật này có hiệu lực thì được giải quyết theo Luật này”. Quy định này chưa mang tính bao quát hết các quy định cần thiết chuyển tiếp để bảo đảm tính thống nhất trong áp dụng pháp luật, đơn cử như dự thảo Luật đã bổ sung khoản 6, vào Điều 5 của Luật Quốc tịch Việt Nam, theo đó quy định “Quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền Việt Nam liên quan đến quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật này không bị khiếu nại, khiếu kiện”. Đây là quy định cần thiết phải bổ sung nhằm khẳng định quyền chủ quyền quốc gia tuyệt đối với các vấn đề quốc tịch; khẳng định giá trị pháp lý của các quyết định của cơ quan có thẩm quyền Việt Nam đối với quốc tịch, bảo đảm lợi ích tối đa của quốc gia theo Hiến pháp và pháp luật; đồng thời, ngăn ngừa và không giải quyết đối với những khiếu nại, khiếu kiện có thể phát sinh liên quan đến vấn đề quốc tịch như thực tế đã xảy ra được nêu trong Tờ trình của Chính phủ. Tuy nhiên, cần rà soát và sửa đổi theo hướng chỉ có quyết định của Chủ tịch nước liên quan đến quốc tịch thì không bị khiếu nại, khiếu kiện, bởi các quyết định của Chủ tịch nước là quyết định“cuối cùng” giải quyết các thủ tục và quyết định đến vấn đề quốc tịch của cá nhân, còn các “quyết định hành chính” khác của các cơ quan liên quan trong quá trình giải quyết như: Sở Tư pháp, UBND cấp tỉnh, Bộ Tư pháp có thể vẫn cần được xem xét, giải quyết khiếu nại, khiếu kiện để bảo đảm quyền lợi của người dân.
Theo đó, đại biểu đề nghị cần bổ sung quy định chuyển tiếp “Đối với các Quyết định của Chủ tịch nước liên quan đến quốc tịch ban hành trước thời điểm Luật này có hiệu lực thi hành không bị khiếu nại, khiếu kiện” để bảo đảm thống nhất, đồng bộ với việc các Quyết định về quốc tịch được ban hành trước thời điểm này (theo quy định của Luật Quốc tịch 2008) cũng không bị khiếu nại, khiếu kiện.
Dương Nhung