Chiều thu Hà Nội, trong không gian ấm áp tại trụ sở Đại sứ quán Cuba, quốc kỳ Việt Nam và Cuba tung bay bên nhau, gợi nhắc tình hữu nghị thủy chung đã được hun đúc suốt 65 năm. Chúng tôi mở đầu câu chuyện bằng việc nhắc lại rằng mối quan hệ Việt Nam - Cuba từ lâu được nhắc đến như “một mối quan hệ mẫu mực, trong sáng và thủy chung”.
Đại sứ Rogelio Polanco Fuentes lắng nghe, rồi khẳng định bằng giọng đầy cảm xúc: “Quan hệ giữa Việt Nam và Cuba là một mối quan hệ vô cùng đặc biệt, đó là tình anh em keo sơn được hình thành trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc và vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước”. Đồng chí Đại sứ nhắc lại rằng, chỉ ít lâu sau thắng lợi của Cách mạng Cuba, hai nước đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào tháng 12/1960. Từ đó, Việt Nam và Cuba luôn kề vai sát cánh, trở thành nguồn động viên, cảm hứng cho nhau trong cuộc đấu tranh cách mạng.
Đại sứ Rogelio Polanco Fuentes.
Ông nhấn mạnh: “Sự lãnh đạo kiệt xuất của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Tư lệnh Fidel Castro chính là nền tảng vững chắc của mối quan hệ này, được xây dựng trên nguyên tắc bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, và được bồi đắp bởi tình đoàn kết gắn bó giữa Đảng, Nhà nước, Chính phủ và nhân dân hai nước”.
Trong hồi ức của Đại sứ, nhiều cột mốc lịch sử trở thành biểu tượng cho tình hữu nghị đặc biệt này: từ việc Cuba đặt văn phòng đại diện của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, thành lập Ủy ban Đoàn kết với nhân dân miền Nam, cho đến chiến dịch quốc tế do Tổng Tư lệnh Fidel Castro lãnh đạo nhằm tố cáo tội ác chiến tranh ở Việt Nam.
Đặc biệt, chuyến thăm lịch sử năm 1973 của Tổng Tư lệnh Fidel Castro tới vùng giải phóng Quảng Trị, khi ông phất cao lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam trên Đồi 241, đã trở thành hình ảnh bất hủ. Đại sứ xúc động nhắc lại lời khẳng định từ tháng 1/1966 của Lãnh tụ Fidel Castro: “Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình”. Với ông, đây không chỉ là một tuyên bố chính trị, mà là biểu tượng của tình cảm thủy chung son sắt hiếm có trong quan hệ quốc tế.
Tiếp nối câu chuyện, phóng viên nhấn mạnh rằng quan hệ đặc biệt ấy không chỉ dừng ở tình cảm, mà còn lan tỏa trên tất cả các lĩnh vực hợp tác. Đồng chí Đại sứ đồng tình và khẳng định: “Quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước chúng ta, Cuba và Việt Nam, đã dệt nên một mối quan hệ vô cùng đặc biệt”.
Theo ông, giữa hai Đảng Cộng sản luôn duy trì những cuộc trao đổi thường xuyên, các hội thảo lý luận, hội nghị khoa học và đoàn đại biểu qua lại, tạo điều kiện để hai bên chia sẻ kinh nghiệm xây dựng Đảng. Ở cấp độ nhân dân, giao lưu giữa các tổ chức quần chúng diễn ra thường trực, làm sâu sắc thêm sự gắn kết. Trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh, hai nước cũng duy trì mối quan hệ hợp tác chặt chẽ. Đặc biệt, hợp tác kinh tế - thương mại đã đạt được những bước tiến đáng kể. Việt Nam hiện là đối tác thương mại lớn thứ hai của Cuba ở châu Á và là nhà đầu tư lớn nhất khu vực này tại Cuba. Nhiều năm qua, Việt Nam đã hỗ trợ Cuba bằng việc cung cấp gạo - loại lương thực thiết yếu trong đời sống người dân Cuba.
Đồng chí Đại sứ nhấn mạnh rằng, từ hợp tác kỹ thuật và trao đổi chuyên gia, hai nước đã tiến tới đầu tư thực chất: Các doanh nghiệp Việt Nam, với công nghệ hiện đại và mô hình quản lý mới, đang góp phần giúp Cuba nâng cao năng lực tự chủ lương thực. Trong lĩnh vực y tế, một liên doanh công nghệ sinh học Việt Nam - Cuba đã được thành lập, mở ra triển vọng sản xuất tại Việt Nam các dược phẩm sinh học tiên tiến của Cuba, phục vụ sức khỏe nhân dân hai nước.
Ông cũng đặc biệt nhắc đến lĩnh vực năng lượng tái tạo - nơi Việt Nam có nhiều thành tựu đáng chia sẻ, còn Cuba đang nỗ lực chuyển đổi sang cơ cấu năng lượng sạch. Các dự án đang và sẽ được triển khai trong tương lai hứa hẹn mang lại lợi ích thiết thực. Hiện một doanh nghiệp Việt Nam đã trở thành nhà đầu tư tiên phong trong Đặc khu phát triển Mariel (ZEDM), mở đường cho nhiều doanh nghiệp khác tiếp bước. Với niềm tin sâu sắc, Đại sứ khẳng định: “Chúng tôi tin rằng trong tương lai sẽ mở ra nhiều cơ hội hơn nữa để, trên nền tảng quan hệ lịch sử giữa hai nước, chúng ta đạt được những bước tiến cao hơn, mang lại lợi ích song phương, phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của cả Cuba và Việt Nam”.
Trong dịp kỷ niệm 80 năm Quốc khánh Việt Nam, chúng tôi không thể không hỏi về đánh giá của Cuba đối với vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đồng chí Rogelio Polanco Fuentes khẳng định: “Kỷ niệm 80 năm Ngày Độc lập của Việt Nam là một sự kiện có ý nghĩa mang tầm vóc thế giới”.
Ông nhắc lại thời khắc 2/9/1945, khi Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập, chấm dứt ách đô hộ thực dân, đánh bại phát-xít và mở ra con đường xây dựng xã hội mới dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kiện này, theo đồng chí Đại sứ, đã làm rung chuyển không chỉ ở Việt Nam mà còn ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, góp phần cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc toàn cầu.
Nhìn lại 80 năm, ông bày tỏ sự ngưỡng mộ trước thành tựu mà Việt Nam đã đạt được: Từ một đất nước bị tàn phá bởi chiến tranh, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới, đạt nhiều tiến bộ trong giảm nghèo, nâng cao chỉ số phát triển con người và hội nhập sâu rộng với cộng đồng quốc tế. Ông khẳng định: “Sự khôn ngoan và nguyên tắc nhất quán trong đường lối đối ngoại của Việt Nam là một tấm gương cho nhân loại”.
Khi phóng viên gợi mở câu hỏi về khả năng Việt Nam trở thành nhịp cầu tin cậy trong các vấn đề quốc tế, đồng chí Đại sứ trả lời dứt khoát: Việt Nam hoàn toàn có đủ điều kiện. Ông dẫn chứng: “Trong một thời gian ngắn, Việt Nam đã hội nhập toàn diện với thế giới ngày nay. Việt Nam kiên trì chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, đồng thời giữ vững những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ với các quốc gia và khu vực”.
Theo ông, Việt Nam không chỉ tham gia mà còn góp phần thúc đẩy các mục tiêu, nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc, triển khai ngoại giao kinh tế, văn hóa, khoa học với nhiều nước, nhờ đó nhận được sự ủng hộ rộng rãi trên toàn cầu. Những thành tựu như thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, xây dựng quan hệ chiến lược và toàn diện với hàng chục đối tác lớn là minh chứng rõ ràng cho vai trò ngày càng nâng cao của Việt Nam. Đồng chí Đại sứ khẳng định: “Việt Nam là tấm gương sáng và chúng tôi trân trọng tấm gương ấy trong một thế giới đang cần những quốc gia mang đến thông điệp về hòa bình, ổn định, tiến bộ, thịnh vượng và công lý”.
Khép lại cuộc trò chuyện, chúng tôi hỏi về kỳ vọng của Cuba đối với vai trò của Việt Nam trong việc duy trì hòa bình, ổn định và phát triển bền vững. Đồng chí Rogelio Polanco Fuentes nhấn mạnh: “Vai trò của Việt Nam là hết sức quan trọng. Chỉ riêng việc đất nước vươn lên từ tro tàn chiến tranh để lựa chọn con đường phát triển toàn diện, đồng thời kiên định ngọn cờ hòa bình, đã mang ý nghĩa đặc biệt”.
Theo ông, Việt Nam đang đặt mục tiêu đến năm 2045 trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát triển bền vững, xây dựng nền kinh tế xanh, số, tuần hoàn. Đó là những mục tiêu đầy tham vọng, nhưng lịch sử đã chứng minh rằng khi Việt Nam đã xác định mục tiêu, toàn dân và cả hệ thống chính trị sẽ đồng lòng thực hiện và chắc chắn sẽ thành công.
Cuộc trò chuyện khép lại, song trong ánh mắt đầy tin tưởng của đồng chí Đại sứ, chúng tôi nhận thấy sự trân trọng và niềm tin sâu sắc dành cho Việt Nam - một dân tộc kiên cường, một tấm gương sáng giữa thế giới nhiều biến động.
Khổng Hà (thực hiện)