Trưởng thành từ những giảng đường
Thời kỳ trước năm 1975, Trung đoàn 910, Trường Sĩ quan Không quân phải sơ tán đến sân bay Tường Vân (Trung Quốc) để huấn luyện phi công
Nguyễn Quang Bộ là một trong số các học viên được đào tạo trên loại máy bay sơ cấp 6 (Iak-18) tại đây. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, ông cùng đồng đội được lệnh về nước và tiếp quản sân bay Nha Trang để huấn luyện.
Đại tá PGS.TS Nguyễn Quang Bộ ( thứ nhất từ trái sang) trong thời gian học ở Học viện Không quân Gagarin
Về nước, ông tiếp tục chuyển loại đào tạo trên loại máy bay T41 thu được của địch. Một thời gian sau, nhà trường tiếp nhận dòng máy bay huấn luyện L-29 và L-39 của Tiệp Khắc, ông lại tiếp tục làm học viên trên loại máy bay này. Tốt nghiệp ra trường, ông được Nhà trường giữ lại làm giảng viên của Trung đoàn 910, Trường Sĩ quan Không quân.
Năm 1982, khi đang là Phi đội trưởng Phi đội 2, Trung đoàn 910, Đại tá Nguyễn Quang Bộ được cử đi bồi dưỡng tiếng Nga, sang Liên Xô học tại Học viện Không quân Gagarin. Thời điểm đó, ông là người đầu tiên của Trường Sĩ quan Không quân được cử đi học ở Liên Xô.
Tại Học viện Gagarin, rào cản tiếng Nga là một thử thách lớn đối với ông, bởi ông là người duy nhất trong số các sĩ quan khóa ấy chưa qua đào tạo phi công ở Liên Xô. Đại tá Nguyễn Quang Bộ kể lại, suốt 4 năm học, ông không có thời gian nghỉ ngơi, hầu hết thời gian sau giờ lên lớp, ông đều nỗ lực học thêm tiếng Nga và nhờ đồng đội giúp đỡ để theo kịp chương trình lý thuyết.
Có một điều đặc biệt, đó là luận văn tốt nghiệp của ông tại Học viện Gagarin với đề tài: “Sử dụng không quân chi viện cho chiến dịch phòng ngự” đã ghi dấu ấn về tư duy khoa học, áp sát thực tiễn và khơi mạch nguồn cho con đường nghiên cứu khoa học sau này của Đại tá Nguyễn Quang Bộ ở Trường Sĩ quan Không quân, cũng như ở Học viện Phòng không - Không quân.
Xây dựng “Phi đội huyền thoại” và nét đẹp “Bay - Máy”
Tốt nghiệp Học viện Không quân Gagarin về nước, Đại tá Nguyễn Quang Bộ được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 910, Trường Sĩ quan Không quân. Trên cương vị mới, ông đi sâu, đi sát thực tế và đưa ra những quy định mới mẻ, khác biệt.
Phi công cấp 1 Nguyễn Quang Bộ trên máy bay L-39 trước khi bay.
Cũng trong thời gian này, mối quan hệ giữa phi công (bay) và những người phục vụ dưới mặt đất như thợ máy, điện khí (máy) thực sự gắn kết. Khái niệm “Bay - Máy” (mối quan hệ gắn bó giữa phi công và thợ máy) trở thành nét đẹp truyền thống đặc trưng và có sức lan tỏa sâu rộng trong toàn trường từ đó.
Tâm sự với chúng tôi, Đại tá Nguyễn Quang Bộ cho biết: “Có lẽ khoảng thời gian làm Phi đội trưởng Phi đội 2, Trung đoàn 910 đã mang đến cho tôi nhiều cảm xúc và kỷ niệm nhất. Phi đội 2, nơi tôi làm Phi đội trưởng đầu tiên, cùng các thế hệ kế tiếp, nhiều năm đạt danh hiệu Phi đội quyết thắng, đảm bảo an toàn trong huấn luyện và luôn có tỷ lệ đào tạo phi công cao nhất nhà trường. Và trong mắt đồng nghiệp, cái tên Phi đội 2 đã trở thành “Phi đội huyền thoại” của Trung đoàn 910 lúc bấy giờ.”
Hơn 30 năm làm phi công, giảng viên bay, Đại tá Nguyễn Quang Bộ đã có 1.500 giờ bay và chỉ huy hàng nghìn ban bay. Ông cũng trực tiếp đào tạo được 10 phi công, 20 giảng viên bay và hàng chục chỉ huy bay cấp Trung đoàn.
Ngoài ra ông còn cùng với đồng đội đào tạo được 4 phi công cho nước bạn Lào. “Những năm tháng làm giáo viên bay, tôi đã sống và làm tròn trách nhiệm của một người thầy, hết mình với học trò trên giảng đường mây” - Đại tá Nguyễn Quang Bộ chia sẻ.
Năm 1998, ông được bổ nhiệm làm Phó hiệu trưởng đào tạo Trường Sĩ quan Không quân. Thời gian này, ông cùng Đảng ủy, Ban giám hiệu đề xuất cấp trên trang bị các loại máy bay mới tương thích với dòng máy bay chiến đấu thế hệ mới, giúp học viên nhanh chóng làm chủ trang bị kỹ thuật. Đồng thời, mở thêm chương trình đào tạo phi công lái máy bay trực thăng để phục vụ các nhiệm vụ khai thác dầu khí, tuần tra biển…
Dấu ấn trên con đường nghiên cứu khoa học
Năm 2005, Đại tá Nguyễn Quang Bộ được điều về công tác tại Học viện Phòng không - Không quân. Tại đây, ông đã bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ (2005-2008) tại Học viện Quốc phòng với đề tài: “Nghệ thuật sử dụng Không quân tiêm kích trong tác chiến phòng thủ trên chiến trường miền Bắc”.
Đại tá Nguyễn Quang Bộ, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 910 (thứ nhất, từ trái sang) phục vụ Nhà trường kiểm tra trong ban bay huấn luyện. Ảnh tư liệu
Trên cương vị Phó giám đốc Học viện Phòng không - Không quân phụ trách nghiên cứu khoa học, Đại tá, TS Nguyễn Quang Bộ đã cùng với Ban giám đốc Học viện đổi mới nội dung giảng dạy, chỉ đạo biên soạn giáo trình và dịch tài liệu tham khảo nước ngoài. Bản thân ông còn trực tiếp hướng dẫn 6 học viên đào tạo thạc sĩ, trong đó có một học trò cũ, hiện là Phó hiệu trưởng Trường Sĩ quan Không quân.
Năm 2010, ông trở thành phó giáo sư. Đây là sự ghi nhận đặc biệt của Hội đồng Giáo sư nhà nước đối với một giảng viên bay, một nhà nghiên cứu khoa học hàng không của Quân chủng Phòng không - Không quân.
Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều đề tài khoa học cấp Bộ, Quân chủng và Học viện, viết và dịch hàng chục tài liệu giảng dạy cho phi công và đào tạo chỉ huy Tham mưu cấp Trung, Lữ, Sư đoàn của Học viện Phòng không - Không quân.
Năm 2015, Đại tá, PGS, TS Nguyễn Quang Bộ nghỉ hưu theo chế độ tại Học viện Phòng không - Không quân, sau đó ông trở lại Nha Trang với người vợ thân yêu của mình.
Đại tá, PGS, TS Nguyễn Quang Bộ (thứ 2, từ phải sang) nhận Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn chức danh Phó giáo sư năm 2010.
Với những thành tích xuất sắc trong huấn luyện đào tạo phi công và xây dựng Quân đội, Đại tá, PGS, TS Nguyễn Quang Bộ đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận bằng nhiều phần thưởng cao quý: 1 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất; 2 Huân chương Chiến công hạng Nhất; 1 Huy chương Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng Ba; 3 Huy chương Chiến sĩ vẻ vang (hạng Nhất, Nhì, Ba); 2 Huy chương Quân kỳ Quyết thắng; 5 danh hiệu Chiến sĩ thi đua; 3 danh hiệu Chiến sĩ Quyết thắng; Giảng viên dạy giỏi cấp Bộ và cấp Học viện cùng nhiều bằng khen, giấy khen khác.
Đại tá Lại Công Hoan, Phó hiệu trưởng Trường Sĩ quan Không quân cho biết: “Cuộc đời quân ngũ của PGS, TS Nguyễn Quang Bộ là hành trình của một người thầy tâm huyết, nhà khoa học sáng tạo. Tinh thần cống hiến vô tư, trọn vẹn và nhân cách cao đẹp của ông sẽ mãi là nguồn cảm hứng cho những ai đang đứng trên ngưỡng cửa khoa học và sự nghiệp bảo vệ bầu trời Tổ quốc.
Đã có lần ông tâm sự với chúng tôi “Dù ở bất kỳ vị trí nào - từ những giây phút giảng bình dưới cánh máy bay đến “giảng đường trên mây”; từ người “chiến binh” trên bầu trời đến trụ cột gia đình, chỉ cần có lòng nhiệt huyết và sự chân thành, người ta có thể sống trọn vẹn và để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng đồng đội, học trò và người thân”.