Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du, xã Tiên Điền, tỉnh Hà Tĩnh.
Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh năm Ất Dậu (1765), niên hiệu Cảnh Hưng triều vua Lê Hiển Tông, tại phường Bích Câu - Thăng Long (Hà Nội), trong một gia đình có truyền thống yêu chuộng văn chương và nghệ thuật, nhiều đời làm quan to dưới triều vua Lê, chúa Trịnh. Mồ côi cha mẹ từ khi còn nhỏ, chứng kiến sự suy tàn của triều Lê - Trịnh và những cuộc binh biến liên miên cuối thế kỷ XVIII, ông trải qua nhiều năm lưu lạc, sống giữa nhân dân, thấm thía nỗi khổ của kiếp người trong xã hội đầy bất ổn.Chính những trải nghiệm ấy, đã định hình tư tưởng và cảm hứng sáng tác của Nguyễn Du. Ông không nhìn cuộc đời từ đỉnh cao quyền lực, mà từ nỗi đau của con người nhỏ bé trước cơn bão lịch sử. Dù sau này ra làm quan dưới triều Nguyễn, Nguyễn Du vẫn mang trong mình nhiều day dứt, trăn trở, để rồi tất cả lắng đọng thành chiều sâu nhân bản trong các sáng tác văn chương.
Đại thi hào Nguyễn Du để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm văn chương cả chữ Hán và chữ Nôm, bao gồm: Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục, Văn tế thập loại chúng sinh, Thác lời trai phường nón, Sinh tế Trường Lưu nhị nữ… và nổi tiếng nhất là Truyện Kiều. Truyện Kiều của Nguyễn Du, nguyên tác là "Đoạn trường tân thanh", là kiệt tác truyện thơ Nôm lục bát gồm 3.254 câu, dựa trên cốt truyện Trung Quốc "Kim Vân Kiều truyện" nhưng thực chất là bức tranh hiện thực rộng lớn về xã hội phong kiến Việt Nam đương thời. Tác phẩm kể về 15 năm lưu lạc đầy bi kịch của Thúy Kiều.
Về giá trị hiện thực, Truyện Kiều đã lột tả bộ mặt đen tối, bất công, tàn bạo của chế độ phong kiến Việt Nam; phơi bày nỗi khổ đau đến cùng cực, nhất là người phụ nữ; là lời tố cáo đanh thép các thế lực tàn bạo chà đạp lên nhân phẩm, quyền sống; vạch trần sức mạnh ghê gớm của đồng tiền có thể “đổi trắng thay đen”, biến con người thành hàng hóa bị mua bán, đổi chác. Về giá trị nhân đạo, đó là tiếng nói bênh vực con người, đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lý, ngợi ca lòng hiếu thảo, trái tim nhân hậu, đức vị tha, thủy chung, chí khí anh hùng. Về nghệ thuật, Nguyễn Du đã kết hợp tài tình ngôn ngữ bác học với lời ăn tiếng nói dân gian, nâng tiếng Việt và thể thơ lục bát lên tới đỉnh cao, làm giàu cho ngôn ngữ dân tộc. Sinh thời, Tổng Bí thư Trường Chinh đã khẳng định:“Truyện Kiều là một áng văn kiệt tác mà dân tộc ta lấy làm tự hào một cách chính đáng. Với lời thơ rất đẹp, tác phẩm nghệ thuật đó đã tố cáo một cách hùng hồn chế độ bất công của thời phong kiến, nhất là đối với phụ nữ và đấu tranh cho chủ nghĩa nhân đạo, cho tình yêu chân chính của con người”.
Nhờ những giá trị lớn lao ấy, Truyện Kiều được lưu truyền rộng rãi, chinh phục mọi tầng lớp, trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho thơ ca, âm nhạc, sân khấu; đồng thời sản sinh nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa - nghệ thuật độc đáo như: trò Kiều, chèo Kiều, vịnh Kiều, lẩy Kiều, bói Kiều, đố Kiều… là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn trong và ngoài nước. Đến nay, Truyện Kiều được dịch ra trên 30 thứ tiếng trên thế giới, trong đó tiếng Pháp có trên 15 bản dịch, tiếng Anh và tiếng Hán có trên 10 bản, tiếng Nhật 5 bản… Năm 2020, xuất bản ấn phẩm “Truyện Kiều tam ngữ” (Truyện Kiều bằng 3 thứ tiếng: Việt - Anh - Pháp).
Những giá trị vượt không gian và thời gian của Truyện Kiều khẳng định tài năng xuất chúng cùng tầm vóc tư tưởng, văn hóa mang giá trị quốc tế của Đại thi hào Nguyễn Du. Năm 1965, Hội đồng Hòa bình Thế giới quyết nghị tổ chức kỷ niệm 200 năm Ngày sinh Nguyễn Du; năm 2013, UNESCO ban hành nghị quyết chính thức kỷ niệm 250 năm Ngày sinh Nguyễn Du vào năm 2015 tại các quốc gia thành viên. Những dấu mốc đó ghi nhận những đóng góp to lớn của Nguyễn Du đối với kho tàng văn hóa nhân loại, đồng thời khẳng định sức sống bền bỉ và sự lan tỏa mạnh mẽ của văn hóa Việt Nam.
Với những cống hiến đặc biệt của Đại thi hào Nguyễn Du đối với nền văn học dân tộc và văn hóa nhân loại, Đảng, Nhà nước và cộng đồng quốc tế đã nhiều lần tôn vinh. Tháng 12/1964, tại thành phố Béclin (Đức), Hội đồng Hòa bình thế giới ra quyết nghị kỷ niệm 200 năm Ngày sinh Nguyễn Du cùng với một số danh nhân văn hóa tiêu biểu của thế giới; tiếp đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 112-CT/TW ngày 26/10/1965 về việc kỷ niệm Nguyễn Du, mở ra một giai đoạn mới trong nghiên cứu, khẳng định và tôn vinh Nguyễn Du và các di sản của ông. Trên cơ sở đó, nhiều đợt kỷ niệm quy mô lớn tiếp tục được tổ chức, nhất là các dịp 240 năm, 245 năm Ngày sinh của Nguyễn Du do Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), Hội Nhà văn Việt Nam và tỉnh Hà Tĩnh phối hợp thực hiện. Đặc biệt, năm 2013, tại kỳ họp lần thứ 37, Đại hội đồng UNESCO đã thông qua Nghị quyết 37C/15 vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân văn hóa thế giới; tiếp đó, năm 2015, Ban Bí thư Trung ương Đảng đồng ý chủ trương tổ chức Lễ kỷ niệm cấp quốc gia 250 năm Ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du.
Song song với đó, Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm bảo tồn, tôn tạo không gian văn hóa Nguyễn Du, trọng tâm là Di tích Quốc gia đặc biệt Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du tại Tiên Điền, Hà Tĩnh. Hằng năm, Khu lưu niệm đón hàng vạn lượt khách trong và ngoài nước; nhiều nhà nghiên cứu, học giả, sinh viên đến tham quan, học tập, nghiên cứu; qua đó, khẳng định sức sống bền bỉ của di sản Nguyễn Du trong đời sống đương đại và đóng góp thiết thực vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Thời gian trôi qua, nhưng tên tuổi Nguyễn Du và giá trị tác phẩm của ông luôn sống mãi. Kỷ niệm 260 năm Ngày sinh của Đại thi hào Nguyễn Du (1765 - 2025) không chỉ là dịp tưởng nhớ, tri ân một thiên tài văn học, một danh nhân văn hóa thế giới, mà còn là hoạt động có ý nghĩa quan trọng, góp phần cụ thể hóa các nghị quyết, kết luận của Đảng về văn hóa và con người Việt Nam; đồng thời, nhắc nhở các thế hệ mai sau về trách nhiệm kế thừa, gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa bền vững mà Nguyễn Du để lại trong dòng chảy hội nhập quốc tế.
Trang Nguyễn