Ông đã có những đóng góp to lớn trong hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, khắc họa rõ nét chân dung người chiến sĩ cách mạng toàn tâm toàn ý vì độc lập dân tộc. Những bài học từ cuộc đời và sự nghiệp của ông vẫn luôn mang ý nghĩa sâu sắc, đặc biệt đối với các thế hệ học viên Trường Sĩ quan Lục quân 1 hôm nay – nơi đang đào tạo lớp sĩ quan kế tục xứng đáng truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ảnh tư liệu
Đại tướng Hoàng Văn Thái, tên thật là Hoàng Văn Xiêm, sinh ngày 01/5/1915 tại xã Tiền Phong, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Xuất thân trong một gia đình nông dân yêu nước, ông sớm thấm nhuần tinh thần dân tộc và lòng căm thù giặc. Năm 1936, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, hoạt động cách mạng tại Thái Lan, rồi Trung Quốc. Năm 1941, ông trở về nước và trở thành một trong những cán bộ nòng cốt của Mặt trận Việt Minh, tham gia xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Tham mưu. Hoàng Văn Thái được tin tưởng giao trọng trách là Tổng Tham mưu trưởng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là bước ngoặt lớn không chỉ trong cuộc đời Đại tướng, mà còn đối với sự hình thành và phát triển của lực lượng vũ trang nhân dân.
Dưới sự lãnh đạo của Đại tướng, Bộ Tổng Tham mưu đã phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chủ lực, dân quân, du kích, từng bước xây dựng một đội quân chính quy, hiện đại, có bản lĩnh và sức chiến đấu cao. Đại tướng đã trực tiếp tham gia chỉ đạo nhiều chiến dịch quan trọng như: Chiến dịch Biên giới 1950, Chiến dịch Trung Du, Đông Bắc, và đặc biệt là Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đại tướng Hoàng Văn Thái giữ vai trò Tổng Tham mưu trưởng, Phó Bí thư Tổng Quân ủy. Ông là người có công lớn trong việc tham mưu tổ chức các chiến dịch quy mô lớn mang tính quyết định, tạo bước ngoặt chiến lược. Đặc biệt, ông là một trong những kiến trúc sư quân sự của chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Trong chiến dịch này, Đại tướng cùng với Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ đạo lập kế hoạch tác chiến, tổ chức hậu cần, chuẩn bị trận địa. Ông đề xuất các phương án “đánh chắc, tiến chắc”, làm nên thắng lợi vang dội vào tháng 5/1954, buộc Pháp phải ký Hiệp định Genève, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương.
Sau Hiệp định Genève, Đại tướng tiếp tục đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng trong Quân đội: Phó Tổng Tham mưu trưởng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, Phó Tư lệnh Bộ Chỉ huy Miền (B2), Phó Tổng Tham mưu trưởng Thường trực. Đặc biệt trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đại tướng tham gia chỉ đạo các chiến dịch then chốt như: Chiến dịch Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975.
Với kinh nghiệm và tư duy chiến lược sắc bén, ông luôn giữ được cái nhìn bao quát và định hướng hành động đúng đắn, giúp quân dân ta giành thắng lợi toàn diện, thống nhất đất nước.
Đại tướng Hoàng Văn Thái là người luôn coi trọng việc nắm chắc tình hình địch - ta - bạn và dự báo chính xác các khả năng phát triển. Trong nhiều chiến dịch, ông thể hiện năng lực phân tích chiến trường và tư duy tác chiến linh hoạt. Đây là bài học quan trọng đối với sĩ quan hiện nay: phải rèn luyện tư duy chiến lược, biết phân tích đa chiều, không rập khuôn, máy móc.
Đại tướng là người chủ trương kết hợp chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Trong thời đại mới, việc phối hợp giữa các lực lượng, binh chủng; giữa tác chiến thực địa và tác chiến mạng; giữa chiến tranh nhân dân và công nghệ cao càng cần được học viên sĩ quan nắm vững.
Chiến lược “đánh chắc, tiến chắc” do ông đề xuất tại Điện Biên Phủ là minh chứng cho tư duy linh hoạt, dũng cảm thay đổi kế hoạch để bảo đảm thắng lợi. Bài học ở đây là: người cán bộ, học viên cần có tư duy đổi mới, linh hoạt, không bảo thủ và sẵn sàng thay đổi để thích ứng với điều kiện chiến trường, điều kiện thời đại.
Đại tướng Hoàng Văn Thái luôn thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân trong chiến tranh. Ông cho rằng: “Chỉ khi gắn chặt quân đội với dân, dựa vào dân thì mới thắng được mọi kẻ thù xâm lược”. Đây là bài học sâu sắc cho học viên về xây dựng “thế trận lòng dân”, giữ vững niềm tin của nhân dân với Đảng và Quân đội.
Đại tướng Hoàng Văn Thái là tấm gương mẫu mực về bản lĩnh chính trị, trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Học viên Trường Sĩ quan Lục quân 1 cần lấy đó làm chuẩn mực rèn luyện, phấn đấu tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân.
Từ một trí thức yêu nước, Đại tướng đã không ngừng học tập để trở thành vị tướng thao lược. Tinh thần đó nhắc nhở học viên hôm nay phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ, đặc biệt trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, đòi hỏi cán bộ quân đội phải tinh thông cả lý luận chính trị, khoa học quân sự và công nghệ hiện đại.
Đại tướng luôn đề cao vai trò tập thể, phát huy dân chủ trong quân đội. Đây là nguyên tắc cần được duy trì trong các đơn vị đào tạo. Học viên Trường Sĩ quan Lục quân 1 cần coi trọng kỷ luật, đoàn kết nội bộ, xây dựng môi trường sư phạm mẫu mực, nhân văn, chính quy, hiện đại.
Đại tướng Hoàng Văn Thái là một biểu tượng lớn của trí tuệ, bản lĩnh, tài thao lược và lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng. Từ những đóng góp to lớn trong hai cuộc kháng chiến đến những di sản nghệ thuật quân sự sâu sắc, ông để lại những bài học quý báu cho các thế hệ sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, đặc biệt là với học viên Trường Sĩ quan Lục quân 1 – cái nôi đào tạo người chỉ huy lục quân của đất nước.
Trong thời đại hội nhập và cách mạng công nghiệp mới, việc học tập và làm theo tấm gương Đại tướng Hoàng Văn Thái không chỉ là niềm tự hào mà còn là trách nhiệm lịch sử của thế hệ trẻ hôm nay trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thượng tá, ThS Nguyễn Hữu Quý, Trường Sĩ quan Lục quân 1, Bộ Quốc phòng