Phó thủ tướng Trần Hồng Hà mới đây đã chủ trì cuộc họp trực tiếp kết hợp trực tuyến nghe Bộ Nông nghiệp và Môi trường báo cáo và các bộ ngành, địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học cho ý kiến về báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2026-2035 (Chương trình mục tiêu); Dự thảo Nghị định quy định chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2026-2030 (Dự thảo Nghị định).
Phó thủ tướng cho rằng Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong giảm nghèo, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, nhưng giảm nghèo đa chiều đặt ra yêu cầu cao hơn, đặc biệt trong bối cảnh đảm bảo các chỉ tiêu kinh tế – xã hội, đời sống nhân dân, hướng tới một xã hội công bằng, giàu mạnh, với mục tiêu ấm no, hạnh phúc.
Việc ban hành Nghị định về chuẩn nghèo đa chiều là bước tiến mới, vừa phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, vừa xác định các chuẩn mực mới, phù hợp với yêu cầu phát triển trong giai đoạn hiện nay; là cơ sở pháp lý, chính sách để các địa phương triển khai trong nhiệm kỳ mới.
100% xã nghèo thoát nghèo
Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng, dự kiến chuẩn nghèo giai đoạn 2026-2030 gồm hai nhóm tiêu chí: Thu nhập (2,2 triệu đồng/người/tháng ở nông thôn; 2,8 triệu ở đô thị) và mức thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản, tiệm cận mức sống tối thiểu đến năm 2028.
 Ảnh minh họa. 
Số liệu của Cục Thống kê, nếu áp dụng chuẩn mới từ đầu năm 2026, tỉ lệ hộ nghèo đa chiều tăng từ 1,93% lên 11,7%, tương ứng khoảng 3,3 triệu hộ. Kinh phí thực hiện các chính sách hỗ trợ an sinh xã hội cho các hộ nghèo, cận nghèo năm 2026 khoảng 30.000 tỷ đồng, gấp đôi năm 2025; bình quân giai đoạn 2026-2030 khoảng 23.000 tỷ đồng/năm, cao hơn mức 19.000 tỷ đồng/năm của giai đoạn trước đây.
Về đề xuất hợp nhất 2 chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2026-2035, Bộ Nông nghiệp và Môi trường dự kiến sẽ triển khai toàn quốc với đối tượng thụ hưởng gồm hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, cộng đồng, hợp tác xã và tổ chức liên quan. Chương trình có lộ trình 10 năm, chia hai giai đoạn (2026-2030, 2031-2035).
Chương trình bảo đảm phát triển bao trùm, lấy người dân làm trung tâm; xây dựng nông thôn hiện đại gắn công nghiệp hóa, đô thị hóa; phát triển đồng bộ kinh tế – xã hội – môi trường; đẩy mạnh khoa học, công nghệ, chuyển đổi số; quản trị đa mục tiêu, phân cấp mạnh cho địa phương, phát huy vai trò cộng đồng và doanh nghiệp…
Mục tiêu đến năm 2030, thu nhập bình quân của người dân nông thôn tăng 2,5–3 lần so với 2020; tỉ lệ hộ nghèo giảm 1–1,5%/năm, xã nghèo giảm ít nhất 3%/năm; 100% xã nghèo thoát nghèo; ít nhất 65% xã đạt chuẩn nông thôn mới, 10% xã đạt chuẩn hiện đại; 4–5 tỉnh, thành phố hoàn thành xây dựng nông thôn mới.
Đến năm 2035, thu nhập bình quân của người dân nông thôn tăng 1,6–2 lần so với năm 2030; ít nhất 85% xã đạt chuẩn, 10–12 tỉnh, thành phố hoàn thành xây dựng nông thôn mới, trong đó 4–5 địa phương đạt chuẩn nông thôn mới hiện đại.
Tổng nguồn lực dự kiến huy động để thực hiện chương trình trong giai đoạn 2026-2035 là 12,35 triệu tỷ đồng. Trong đó, giai đoạn 2026-2030 là 4,93 triệu tỷ đồng, giai đoạn 2031-2035 khoảng 7,42 triệu tỷ đồng.
Trong giai đoạn 2026-2030, ngân sách Trung ương phân bổ ưu tiên cho 350 xã nghèo khoảng 52.500 tỷ đồng; hỗ trợ 1.148 xã phấn đấu đạt chuẩn nông thôn mới vào năm 2030 khoảng 106.000 tỷ đồng; hỗ trợ cho 463 xã thực hiện các nhiệm vụ giảm nghèo bền vững và phấn đấu đạt chuẩn nông thôn mới giai đoạn 2031-2035 khoảng 18.520 tỷ đồng. Ngoài ra, khoảng 3.000 tỷ đồng được bố trí cho các bộ, ngành để thực hiện công tác quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức triển khai Chương trình, giám sát, đánh giá…
Đưa nguồn vốn tín dụng chính sách đến với người dân
Tại Cần Thơ, sau hơn 3 tháng đi vào hoạt động sau sáp nhập, Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội Hậu Giang (trực chi nhánh thành phố Cần Thơ) đã trở thành cầu nối quan trọng đưa nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước đến đúng đối tượng thụ hưởng, góp phần thiết thực vào công tác giảm nghèo, tạo việc làm và phát triển kinh tế địa phương.
Tính đến ngày 30/9/2025, tổng nguồn vốn hoạt động của Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội Hậu Giang đạt hơn 578 tỷ đồng, trong đó vốn Trung ương gần 499 tỷ đồng, vốn huy động cấp bù lãi suất hơn 69 tỷ đồng, và vốn địa phương hơn 10 tỷ đồng.
Doanh số cho vay trong 9 tháng đạt 163 tỷ đồng, với hơn 3.000 lượt hộ vay, tập trung vào các chương trình: hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn, nhà ở xã hội và giải quyết việc làm. Hiện tổng dư nợ đạt 577,7 tỷ đồng, với hơn 9.200 khách hàng còn dư nợ. Chất lượng tín dụng được bảo đảm, nợ quá hạn chỉ chiếm 0,38% và nợ khoanh 0,48% tổng dư nợ ở tỷ lệ thấp.
Ông Nguyễn Minh Vương, Phó giám đốc Ngân hàng Chính sách Xã hội thành phố Cần Thơ cho biết: “Tín dụng chính sách chính là phao cứu sinh giúp người nghèo và các đối tượng yếu thế có cơ hội vươn lên. Qua các mô hình chăn nuôi, trồng trọt như nuôi heo, bò, cá hay trồng khóm, nhiều hộ dân đã thoát nghèo, ổn định đời sống và góp phần vào phát triển nông thôn mới.”
Tại Thái Nguyên, hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế – xã hội ở các xã nghèo là một trong những nội dung quan trọng trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) giảm nghèo bền vững.
Tính đến cuối năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều còn 5,46%, giảm 4,83% so với đầu năm 2022 (bình quân mỗi năm giảm 1,61%), đạt và vượt kế hoạch đề ra; tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số còn 11,20%, giảm 8,67% (bình quân mỗi năm giảm 2,89%); tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn các huyện nghèo còn 42,44%, giảm 11% (bình quân mỗi năm giảm 3,67%).
Trong giai đoạn 2026-2030, tỉnh Thái Nguyên đặt mục tiêu 100% các xã nghèo được hỗ trợ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội liên kết vùng, phục vụ dân sinh, sản xuất, thương mại, lưu thông hàng hóa và cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản; ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, gồm: đường giao thông, trường học, cơ sở y tế, cầu, hạ tầng điện, công trình thủy lợi. Tỉnh sẽ tập trung huy động, lồng ghép các nguồn lực để xây dựng kết cấu hạ tầng - xã hội tại các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới như hệ thống giao thông nông thôn liên vùng, đường nội đồng, thủy lợi, nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn; phát triển hệ thống trường học, trạm y tế, bưu chính viễn thông. Tiếp tục xây dựng hoàn thiện cơ chế đặc thù trong quản lý đầu tư xây dựng thực hiện chương trình; cơ chế hỗ trợ vốn đầu tư. Thực hiện công khai cơ cấu các nguồn kinh phí đầu tư đối với các công trình xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn để người dân thảo luận, tự nguyện tham gia hiến đất, đóng góp công sức, tiền của; duy tu, bảo dưỡng các công trình đã được đầu tư.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền và trong các tầng lớp nhân dân về mục tiêu của Chương trình giảm nghèo; tập trung tuyên truyền khơi dậy ý chí chủ động, vươn lên thoát nghèo của người dân.
Viết Dinh