Hiện toàn tỉnh có 63 dự án thủy điện đã đưa vào vận hành phát điện với tổng công suất 3.123,35MW, điện lượng trung bình năm 11.629 triệu kWh (đã tính Thủy điện Huội Quảng). Việc đầu tư xây dựng các công trình thủy điện đã đem lại nguồn thu lớn cho tỉnh thông qua việc thu thuế tài nguyên.
Trong quá trình xây dựng công trình thủy điện, kết cấu hạ tầng, giao thông trong vùng có dự án được đầu tư, xây dựng đồng bộ đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo của địa phương. Các hồ chứa thủy điện lớn cũng đang dần được sử dụng theo hướng đa mục tiêu, kết hợp với nuôi trồng thủy sản, phát triển du lịch lòng hồ và vận tải thủy.
Quá trình vận hành Nhà máy Thủy điện Phiêng Lúc (xã Nậm Cần), đơn vị doanh nghiệp đảm bảo tối đa về an ninh nguồn nước cho người dân.
Ngoài những tác động tích cực mang lại, khi xây dựng công trình thủy điện cũng sẽ gây ra những tác động tiêu cực như: Làm thay đổi dòng chảy bởi muốn xây dựng các dự án thủy điện trước hết phải chặn dòng chảy của sông, suối mới tạo nên hồ chứa nước. Chính vì thế đã làm thay đổi dòng chảy tự nhiên của con sông, suối. Việc thay đổi dòng chảy tự nhiên sang phục vụ hoạt động sản xuất điện làm giảm đáng kể dòng chảy các con sông, suối mà nó hoạt động. Bên cạnh đó, các dự án thủy điện sau khi tích nước đã làm thay đổi điều kiện sinh thái dẫn đến suy giảm đa dạng sinh học của hệ thực vật và động vật…
Thấy rõ những tác động tiêu cực, hàng năm tỉnh thành lập các đoàn liên ngành tiến hành kiểm tra các công trình thủy điện trên địa bàn tỉnh. Yêu cầu chủ đầu tư thực hiện duy trì lưu lượng xả thường xuyên, liên tục sau đập của các dự án khai thác, sử dụng nước mặt và các giải pháp giảm thiểu nguy cơ thiếu nước trong mùa cạn trên địa bàn tỉnh Lai Châu. Đồng thời xử lý các chủ đầu tư vi phạm theo quy định.
Đồng chí Bùi Huy Phương – Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường cho biết: Để đảm bảo dòng chảy tối thiểu khi đưa vào vận hành các công trình thủy điện, thời gian qua, Sở đã tham mưu UBND tỉnh ban hành các công văn chỉ đạo việc triển khai thực hiện các giải pháp giảm thiểu nguy cơ thiếu nước trong mùa cạn năm 2024.
Các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy và các cơ quan liên quan nắm tình hình tại Nhà máy Thủy điện Nậm Be 2 (xã Phúc Khoa).
Đồng thời đã ban hành các công văn yêu cầu các dự án thủy điện thực hiện duy trì lưu lượng xả thường xuyên, liên tục sau đập của các dự án khai thác, sử dụng nước mặt và các giải pháp giảm thiểu nguy cơ thiếu nước trong mùa cạn trên địa bàn tỉnh Lai Châu. Song song với đó là đề nghị Cục Chuyển đổi số và Thông tin dữ liệu tài nguyên môi trường, Cục Quản lý Tài nguyên nước (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cấp tài khoản truy cập hệ thống giám sát tài nguyên; thường xuyên thanh tra, kiểm tra, theo dõi, giám sát việc xả dòng chảy tối thiểu của các nhà máy thủy điện.
Từ năm 2024 đến nay, 11 chủ dự án thủy điện trên địa bàn tỉnh đã bị xử phạt với số tiền 1,96 tỷ đồng trong đó Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã xử phạt 7 chủ dự án với số tiền 1,755 tỷ đồng, Sở Nông nghiệp và Môi trường xử phạt 4 chủ dự án với số tiền 205 triệu đồng. Các hành vi vi phạm gồm: Không bảo đảm duy trì dòng chảy tối thiểu theo quy định đối với hồ chứa và đập dâng tại công trình thủy điện. Làm sai lệch số liệu quan trắc, giám sát tài nguyên nước tại công trình thủy điện. Báo cáo không đầy đủ về hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại công trình thủy điện.
Không lập sổ theo dõi lưu lượng xả dòng chảy tối thiểu hằng ngày tại công trình thủy điện. Không lắp đặt thiết bị quan trắc, giám sát theo quy định đối với hồ chứa, đập dâng tại công trình thủy điện. Báo cáo không đầy đủ về hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định. Khai thác sử dụng tài nguyên nước khi giấy phép đã hết hạn. Không thực hiện việc cắm mốc giới hành lang bảo vệ nguồn nước. Không có giấy phép khai thác tài nguyên nước.
Tại xã Phúc Khoa, nơi có 2 nhà máy thủy điện đã hoàn thành và phát điện. Theo ông Lò Văn Lục – Chủ tịch UBND xã, quan điểm của xã không đánh đổi an ninh lương thực lấy kinh tế. Bởi với gần 100% nhân dân sống bằng nghề nông thì vấn đề về nguồn nước phục vụ cho nông dân sản xuất phải đặt lên trên hết. Do đó, xã kiểm soát chặt việc đảm bảo dòng chảy tối thiểu của các nhà máy thủy điện để nông dân có nước sản xuất. Tuyên truyền bà con nếu không đủ nước sản xuất ở hạ nguồn thì thông tin với chính quyền xã để có biện pháp xử lý.
Việc đảm bảo nguồn nước cho nông dân sản xuất là vấn đề ưu tiên số một để đảm bảo an ninh lương thực cho các địa phương.
Để đảm bảo hài hòa lợi ích giữa người dân và doanh nghiệp trong khai thác, bảo vệ nguồn nước, tránh xảy ra tình trạng tranh chấp nguồn nước thì vai trò của cấp ủy, chính quyền địa phương cũng như người dân đóng vai trò rất quan trọng. Việc phân bổ tài nguyên nước phải có sự hài hòa giữa lợi ích và nhu cầu, trong đó ưu tiên nguồn cấp nước cho sinh hoạt, đồng thời, phải đảm bảo nước cho môi trường sinh thái… Và quan trọng, quá trình sử dụng nước phải tiết kiệm, hiệu quả; sử dụng nước tổng hợp, đa mục tiêu, hợp lý, hài hòa lợi ích giữa người dân và doanh nghiệp.
Thu Trang Nhấn để tìm kiếm tin cùng tác giả