Những góp ý của KTNN nhằm bảo đảm Điều 40 Luật NSNN được triển khai minh bạch, thống nhất và khả thi. Ảnh: TL
Làm rõ phạm vi, đối tượng và nguyên tắc quản lý
Theo KTNN, tại Điều 1 - Phạm vi điều chỉnh, Dự thảo cần được biên tập chặt chẽ hơn để phù hợp với khoản 1 Điều 40 Luật NSNN. Cụm từ liên quan đến bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nên được diễn đạt ngắn gọn, tránh trùng lặp. Đồng thời, cần bổ sung cụm từ “giao” để quy định đầy đủ: “việc lập dự toán, phân bổ, giao dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí”, bảo đảm phù hợp với các bước chấp hành NSNN.
Một điểm đáng lưu ý là Dự thảo hiện dẫn chiếu cụ thể tới nhiều nghị định chuyên ngành. KTNN cho rằng chỉ nên quy định nguyên tắc chung, đó là: “không điều chỉnh đối với các lĩnh vực đã được quy định tại luật hoặc nghị định khác”. Cách tiếp cận này sẽ giúp tránh tình trạng phải sửa đổi nghị định khi các văn bản chuyên ngành thay đổi, đồng thời bảo đảm tính ổn định và đồng bộ của hệ thống pháp luật.
Đối với Điều 2 - Đối tượng áp dụng, KTNN nhận định phạm vi quy định hiện còn quá rộng. Cần bổ sung nguyên tắc xác định rõ cơ quan, đơn vị nào được phép lập, quản lý, sử dụng kinh phí để tránh tình trạng vận dụng sai. Ngoài ra, tại khoản 3 và 4, việc gộp cá nhân vào khái niệm “cơ quan, đơn vị” là chưa hợp lý, dễ gây lẫn lộn trong quá trình triển khai, do đó cần chỉnh sửa để chính xác và rõ ràng hơn.
Ở Điều 3 - Giải thích từ ngữ, KTNN đề nghị làm rõ khái niệm “nhiệm vụ cần thiết khác” để có sự phân biệt cụ thể với nhiệm vụ đột xuất hay những nhiệm vụ đã nằm trong dự toán. Điều này nhằm tránh lạm dụng và đảm bảo tính minh bạch trong quản lý NSNN.
Về Điều 4 - Nguyên tắc bố trí dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí chi thường xuyên, cần đưa ra tiêu chí cụ thể đối với khái niệm “nhiệm vụ”. Đây là điểm then chốt để ngăn chặn tình trạng chia nhỏ nhiệm vụ nhằm tránh mức trần 20 tỷ đồng/nhiệm vụ. Đồng thời, cần hướng dẫn rõ cách phân định giữa chi đầu tư công và chi thường xuyên cho cùng một nhiệm vụ; bổ sung nguyên tắc công khai, minh bạch và quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan tài chính trong việc thẩm định, kiểm soát dự toán.
Đối với Điều 5 - Nguyên tắc sử dụng chi thường xuyên để thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng, KTNN kiến nghị bỏ từ “công tác” để tránh trùng lặp với Điều 6. Đồng thời, cần bổ sung cơ chế kiểm soát chéo giữa chủ đầu tư và cơ quan tài chính, nhằm phòng ngừa tình trạng kê khai vượt định mức bồi thường, hỗ trợ.
Ở Chương III - Điều 12 “Lập và phê duyệt dự toán”, KTNN đề xuất đổi tên thành “Lập dự toán kinh phí” bởi không có nội dung “phê duyệt dự toán” trong thực tế. Ngoài ra, cần bổ sung quy định bắt buộc sử dụng hết nguồn hỗ trợ kỹ thuật, viện trợ không hoàn lại trước khi sử dụng NSNN cho các dự án ODA, vốn vay ưu đãi.
Tại Chương IV, Dự thảo cần làm rõ cơ chế xử lý đối với dự án bị dừng triển khai, nhất là nguồn kinh phí đã chi cho báo cáo nghiên cứu khả thi. Đồng thời, phải quy định cụ thể phương thức hạch toán và trách nhiệm bồi hoàn nếu có chi sai quy định.
Ở Chương V, hiện Dự thảo dẫn chiếu đến nhiều mẫu biểu trong phụ lục nhưng chưa kèm theo. KTNN kiến nghị cần bổ sung đầy đủ để bảo đảm tính khả thi trong triển khai. Bên cạnh đó, việc phân cấp thẩm quyền phê duyệt hiện mới dựa vào ngưỡng giá trị (dưới 45 tỷ đồng, từ 45-120 tỷ đồng, trên 120 tỷ đồng). Cơ quan soạn thảo cần nghiên cứu bổ sung tiêu chí phân cấp theo tổng dự toán nhiệm vụ mua sắm, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp tài sản, trang thiết bị, để bảo đảm sự hợp lý và chặt chẽ.
Đặc biệt, KTNN nhấn mạnh cần bổ sung quy định về quyết toán đối với kinh phí chuẩn bị đầu tư của các dự án chưa được phê duyệt trong năm. Đây là tình huống thực tế thường xuyên phát sinh nhưng lại chưa được Dự thảo đề cập đầy đủ.
Trong Chương VI, cần chỉnh sửa cụm từ “pháp luật về quyết toán chi thường xuyên” thành “pháp luật về quyết toán chi thường xuyên NSNN”, đồng thời bổ sung quy định về lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí cho nhiệm vụ sửa chữa, cải tạo, nâng cấp công trình dùng chung. KTNN cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải nêu rõ mối liên hệ giữa Luật Đầu tư công và Luật Xây dựng trong các dự án xây dựng, cải tạo công trình để bảo đảm đồng bộ pháp lý, đồng thời quy định cơ chế kiểm toán, thanh tra bắt buộc đối với các nhiệm vụ này.
Điều 40 Luật NSNN (sửa đổi) năm 2025 - Các nhiệm vụ chi NSNN được bố trí từ hai nguồn chi đầu tư công và chi thường xuyên:
1. Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, trưng dụng đất; chuẩn bị giải phóng mặt bằng, giải phóng mặt bằng.
2. Chi phí chuẩn bị, phê duyệt dự án đầu tư công sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài.
3. Lập, thẩm định, phê duyệt báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư; lập, thẩm định, quyết định đầu tư dự án.
4. Mua sắm, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp tài sản, trang thiết bị; thuê hàng hóa, dịch vụ; sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hạng mục công trình trong các dự án đã đầu tư xây dựng.
5. Hoạt động quy hoạch.
6. Các nhiệm vụ cần thiết khác.
7. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Bổ sung chế tài, tăng cường giám sát và hoàn thiện phụ lục
Tại Chương VIII, KTNN đề nghị bổ sung tiêu chí cụ thể để xác định “nhiệm vụ cần thiết khác” tại Điều 32. Đây là cơ sở quan trọng để việc lập, phân bổ, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí được thực hiện minh bạch, thống nhất, tránh tình trạng tùy tiện hoặc vận dụng sai.
Dự thảo hiện mới dừng ở việc quy định trách nhiệm “quản lý, sử dụng đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả”. Theo KTNN, cần thiết phải bổ sung chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm, như: hạch toán sai nguồn, sử dụng sai mục đích, lập dự toán không đúng quy định. Đặc biệt, có thể nghiên cứu bổ sung biện pháp kỷ luật nghiêm khắc như: xử lý trách nhiệm cá nhân, cấm bố trí dự toán cho nhiệm vụ mới trong 2-3 năm kế tiếp đối với đơn vị vi phạm nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, KTNN cũng cho rằng cần quy định rõ hơn về cơ chế giám sát của Kho bạc Nhà nước trong quá trình kiểm soát chi. Thay vì chỉ dừng ở mức “thanh toán theo chứng từ”, cần bổ sung cơ chế kiểm soát thực chất để nâng cao hiệu lực giám sát và phòng ngừa sai phạm.
Về phụ lục và biểu mẫu, Dự thảo hiện dẫn chiếu nhiều nhưng chưa kèm theo. Do vậy, cần bổ sung đầy đủ các mẫu biểu được nêu, đồng thời thiết kế theo hướng đơn giản, dễ tổng hợp, giảm bớt thủ tục hành chính nhưng vẫn bảo đảm tính khả thi và chặt chẽ trong triển khai.
Những góp ý của KTNN trải rộng từ phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, nguyên tắc quản lý, đến cơ chế xử lý dự án dừng triển khai, phân cấp thẩm quyền, chế tài vi phạm và thiết kế biểu mẫu. Tất cả đều hướng tới mục tiêu bảo đảm Điều 40 Luật NSNN được triển khai minh bạch, thống nhất và khả thi. Các đề xuất này sẽ góp phần giúp nghị định không chỉ phù hợp với Luật NSNN mà còn tạo cơ sở pháp lý ổn định, rõ ràng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực ngân sách và siết chặt kỷ luật tài chính./.
MINH ANH