Sau khi thắp những nén hương tri ân trên Đài tưởng niệm 468, giọng anh nghèn nghẹn, đôi mắt như đón trọn những gì tôi kể thêm với anh về những điểm cao nơi này, về nguồn gốc của thương hiệu chè chốt! Chè chốt bây giờ là một trong những sản phẩm OCOP nổi tiếng của Hà Giang. Nó bắt nguồn bởi giống chè hoang dại từ nghìn năm trước, mọc trên dọc dải núi đất, núi đá, cả trên đỉnh Tây Côn Lĩnh. Núi cao, khí hậu khắc nghiệt, đất ít, đá nhiều tạo nên những vạt chè cổ thụ xù xì, to gốc nhưng thấp cây.
Những búp chè chống chọi với sương gió thu đông và nắng ẩm xuân hè tạo nên hương vị đặc trưng riêng có. Vị chè chốt, mỗi người có những cảm nhận khác nhau. Đó là vị ngọt sâu, thanh khiết, thơm thoảng. Đó là vị chát nhè nhẹ, sảng khoái. Đó là vị mặn mòi, thơm sâu, nhớ lâu... Riêng tôi, cảm nhận rõ nhất đọng lại là vị mặn mòi, đậm đà khó quên. Phải chăng có sợi vô hình khi chỉ riêng vị trí quanh đài hương, hơn 4.000 cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh anh dũng...
Phụ nữ dân tộc Dao (Vị Xuyên, Hà Giang) với sản phẩm chè chốt. Ảnh do Hợp tác xã Chè chốt 468 cung cấp
Nửa phần chè là vậy, thế còn chốt? Chè cổ thụ (hay còn gọi là chè shan tuyết - tuyết trên núi - bởi có lớp lông mao trắng muốt trên búp chè non) mang tên gọi “chè chốt” từ cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979. Bộ đội ta chốt trên các điểm cao, kiên cường bám trụ, bảo vệ, giữ từng mỏm đá. Bom đạn cày xới, có những nơi đạn pháo nung đá tai mèo chảy thành “lò vôi thế kỷ”, nhưng những cây chè bị đạn pháo phạt đứt ngang vẫn đâm chồi, nảy lộc.
Trong cuộc chiến đấu bảo vệ, gìn giữ từng tấc đất biên cương của Tổ quốc, thiếu thốn đủ thứ, gian khổ và quyết liệt nhưng tinh thần của bộ đội ta luôn kiên định trước sau “sống bám đá đánh giặc, chết hóa đá bất tử”, lạc quan để sống. Những lúc ngừng bom đạn, các chiến sĩ đã hái những búp chè còn đọng hơi sương, phơi trên đá rồi dùng nồi, thậm chí vung nồi, mũ sắt... để sao chè. Có ấm chè, pha với nước chảy trong lòng núi đun sôi, giữa khoảng lặng của sự sống và hy sinh làm cho tình cảm đoàn kết, trên dưới một lòng thì cái sự “thưởng trà” ấy thanh tao cũng đâu có sánh được! Tôi chợt nhớ một dòng trạng thái (status) hay về trà gần đúng trong hoàn cảnh này: "Nhân sinh tựa trà, cuộc sống tựa nước. Nước có thể biến trà từ đắng thành ngọt, nhân sinh không trải qua bể khổ làm sao có thể hưởng ngọt ngào?".
Những năm tháng đó, anh em còn lạc quan rằng, bộ đội trên chốt thừa chè, lại không thiếu “kẹo lạc” (thanh bê tông một máng hình chữ I) và “chả chìa” (thanh bê tông hình cánh cung). “Kẹo lạc” và “chả chìa” thì mang lên chốt, còn chè thì từ chốt mang xuống, đựng trong ống nứa, ống vầu, vỏ đạn để làm quà tặng hậu phương. Và cái tên chè chốt cũng bắt nguồn từ đó. Ai đã được thưởng thức ấm trà trên chốt tiền tiêu, hẳn sẽ không dễ gì quên được hương vị của nó. Chẳng thế mà có nhiều cựu chiến binh, sau bao năm chỉ mong trở lại Vị Xuyên để được hồi tưởng.
Với mong muốn bảo tồn giống chè quý và phát huy giá trị vùng nguyên liệu chè khắp các huyện miền biên ải, tỉnh Hà Giang cũng như các huyện, xã vùng cây chè đã và đang có nhiều chương trình, kế hoạch để đưa sản phẩm OCOP này đạt 3 sao, 5 sao... Năm 2017, anh Lý Đức Dân, dân tộc Tày, một trong những người gốc ở bản Nà Toong, xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên đã thành lập hợp tác xã đầu tiên để sản xuất thương hiệu Chè chốt 468, với vùng nguyên liệu 150ha tại 4 thôn: Nà Toong, Cốc Nghè, Nặm Ngặt, Lùng Đoóc ngay chân điểm cao năm xưa - Đài tưởng niệm 468 ngày nay.
Người kỹ sư nông nghiệp ấy đã cùng các đồng chí lãnh đạo, các doanh nhân và những người nông dân địa phương nhân lên đặc phẩm chè. Đồng chí Trương Văn Thắng, Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng ủy Khối Cơ quan-Doanh nghiệp tỉnh Hà Giang tự hào chia sẻ với chúng tôi: “Giờ đây, du khách trong và ngoài nước đến với Hà Giang không chỉ được chiêm ngưỡng ruộng bậc thang Hoàng Su Phì, khung cảnh hùng vĩ của cao nguyên đá với cột cờ Lũng Cú, đỉnh Mã Pì Lèng, dòng Nho Quế, hẻm Tu Sản, phố cổ Đồng Văn, dinh thự nhà Vương... thưởng thức những món ăn đặc sắc như mèn mén, thắng cố... mà còn có thể mang về xuôi những ấm chè đậm vị trà - nét riêng hương vị được chắt lọc từ tinh túy đất trời và tình người nơi biên ải...”
NGÔ ANH THU