Thực chất của cái gọi là “dân sự hóa” quân đội ở phương Tây
Theo Đại tá, TS Nguyễn Hữu Phúc, Chủ nhiệm Khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị, dựa trên “học thuyết phân quyền tư sản”, giới lập pháp ở các nước tư sản đã ban hành vô số điều luật thiết tưởng sẽ chia tách được quyền lực của 3 nhóm lập pháp, hành pháp và tư pháp đối với việc quản lý nhà nước về quân sự, quốc phòng. Ở đó, người ta “thực sự” tin rằng, nhờ chế định “dân sự quản lý quân sự” đã được luật hóa thì việc của quân đội tất yếu do phái dân sự thực hiện, chứ “dứt khoát” không phải là việc của đảng hay phe phái quân sự nào. Đơn cử như tại Mỹ, giới làm luật thường viện dẫn Hiến pháp quy định Tổng thống là Tổng Tư lệnh các lực lượng lục quân, hải quân và lực lượng dự bị ở một số bang; Bộ trưởng Quốc phòng là quan chức dân sự và các quy định hạn chế quân nhân tham gia chính trị, để cổ xúy cho mô hình “dân quản quân”, “quân đội phi giai cấp, đứng ngoài chính trị”.
Tuy nhiên, thực tiễn đời sống pháp luật tư sản cho thấy điều nghịch lý với hoài niệm “tốt đẹp” đó, thậm chí vấp phải sự phản đối của chính học giả phương Tây-những người không thuộc trường phái Mác-xít. Trong công trình khoa học “50 từ then chốt của xã hội học”, nhà xã hội học Jean Golfin cho rằng: “Tầm quan trọng của chức năng quân sự bắt nguồn từ sự gần gũi của nó với quyền lực chính trị: Nó là sức mạnh phục vụ cho chính trị, chống lại sự đe dọa ở bên ngoài”.
Khối nữ chiến sĩ Thông tin tham gia nhiệm vụ A80. Ảnh minh họa: qdnd.vn
Nhấn mạnh yếu tố chính trị là khẳng định quân đội luôn mang bản chất giai cấp và gắn liền với nhà nước; không thể có một quân đội trong nhà nước tư sản mà lại không phục vụ lợi ích của chính nhà nước đó. Để giữ vững phương hướng chính trị và bản chất giai cấp của quân đội, giới cầm quyền truyền bá hệ tư tưởng của mình qua giáo dục mang tính định hướng và áp dụng nghiêm các nguyên tắc tổ chức, hoạt động và cơ chế kiểm soát trong toàn lực lượng. Quân đội Mỹ duy trì cả một bộ máy tuyên truyền, trước đây gọi là Cơ quan Thông tin và Giáo dục quân đội (AFIS) và hiện nay chuyển thành nhiều cơ quan như Cơ quan Hoạt động Truyền thông Quốc phòng (DMA), Cơ quan Quan hệ công chúng (PA) và Cơ quan Tác chiến tâm lý (MISO) thuộc Bộ Chiến tranh với cùng mục đích là tiến hành công tác tư tưởng, giáo dục tinh thần binh sĩ... Trong các quân chủng của quân đội Mỹ đều có cơ quan tương tự.
Vì lẽ đó, “dân sự hóa” hay “quốc gia hóa” quân đội chỉ là hình thức chứ không làm thay đổi bản chất quân đội phục vụ giai cấp thống trị. Trong nhà nước tư sản, quyền lực vẫn thuộc về giai cấp tư sản, nên quân đội-dù được tuyên bố “trung lập”-vẫn phục vụ cho lợi ích của họ. Việc thay nhau cầm quyền giữa các đảng ở Mỹ chỉ thay đổi đường lối quản trị chứ không làm thay đổi chế độ chính trị đã được Hiến pháp quy định. Các chính đảng ở Mỹ vẫn can dự mạnh mẽ vào cả lập pháp, hành pháp và tư pháp trong lĩnh vực quân sự. Minh chứng là trong lịch sử Mỹ, ngoại trừ Tổng thống đầu tiên George Washington không thuộc đảng phái nào, các tổng thống còn lại đều đại diện cho các đảng phái chính trị và thực thi đường lối của đảng mình khi đắc cử. Việc Mỹ và một số nước quy định Bộ trưởng Quốc phòng phải là người dân sự chỉ là sử dụng quan chức dân sự thực hiện quản lý nhà nước đối với lĩnh vực quân sự. Đây không có nghĩa là “dân sự hóa” quân đội và càng không phải tách quân đội khỏi chính trị. Hơn nữa, quy định này cũng không được áp dụng tuyệt đối, vì vẫn có những cựu quân nhân chưa đủ thời gian xuất ngũ theo luật nhưng vẫn được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Quốc phòng (năm 1950, 2017).
Thực tế đời sống chính trị ở một số quốc gia trong khu vực cũng cho thấy, chính phủ và các đảng phái đều tìm cách tranh thủ sự ủng hộ và hậu thuẫn về mặt chính trị từ quân đội. Trong nhiều cuộc đảo chính, lực lượng nào kiểm soát hoặc được quân đội ủng hộ thường chiếm ưu thế quyết định trong việc nắm quyền.
Trung Quốc ứng phó với các thủ đoạn thúc đẩy “dân sự hóa” quân đội
Trao đổi với phóng viên Báo Quân đội nhân dân, GS, TS Thành Hán Bình, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khu vực và Quốc gia kiêm Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam, Đại học Công nghiệp Chiết Giang (Trung Quốc), cho biết mặc dù chỉ tác động ở mức độ nhỏ, trào lưu tư tưởng sai lệch đó vẫn từng tồn tại nhất định trong xã hội Trung Quốc và tiềm ẩn nhiều nguy cơ phải cảnh giác. Một số trí thức thường dẫn chứng mô hình của các nước phương Tây để ca ngợi “lợi ích” của cái gọi là “quốc gia hóa quân đội”. Họ lợi dụng các hội thảo, mạng xã hội, diễn đàn và bài viết để tuyên truyền, đánh tráo khái niệm, gây nhiễu loạn nhận thức dư luận. Một số trí thức từng du học nước ngoài càng tích cực cổ xúy cho luận điệu này.
Theo Đại tá, ThS Vũ Văn Khanh, nguyên Trưởng ban Quốc tế, Viện Chiến lược và Lịch sử quốc phòng Việt Nam, các thủ đoạn chống phá đối với quân đội Trung Quốc tập trung vào một số lĩnh vực then chốt, như: Xuyên tạc tổ chức, biên chế quân đội, với luận điệu cho rằng mô hình hiện nay “cồng kềnh, lạc hậu” và có thể được thay thế bằng các lực lượng dân sự. Dưới vỏ bọc “cải cách quân đội” hay “tinh gọn biên chế”, chúng tài trợ các nghiên cứu, hội thảo quốc tế để hợp thức hóa quan điểm “giảm vai trò quân đội thường trực”, từng bước tác động vào nhận thức và tạo nền tảng lý luận cho âm mưu dân sự hóa. Đồng thời, chúng lợi dụng những hạn chế, sự cố trong huấn luyện và quản lý để chỉ trích mô hình tổ chức quân đội, kêu gọi “tách quân đội khỏi hệ thống chính trị”. Các thế lực thù địch khoét sâu vấn đề ngân sách, thổi phồng “chi phí quân sự” nhằm gây sức ép cắt giảm nguồn lực, tư nhân hóa các chức năng then chốt và làm gia tăng sự phụ thuộc vào chuỗi cung ứng bên ngoài.
Đặc biệt, chúng tiến công vào hệ thống tư pháp quân đội Trung Quốc bằng cách khai thác sai phạm nội bộ, rò rỉ tài liệu, vận động các cơ chế quốc tế chất vấn tính hợp pháp của hoạt động tố tụng, từ đó làm suy giảm uy tín và quyền tự chủ tư pháp quân đội. Cùng với đó, chúng thúc đẩy cơ chế giám sát dân sự, đề xuất chuyển một số thẩm quyền xử lý sang hệ thống tư pháp dân sự hoặc quốc tế, nhằm từng bước làm xói mòn tính đặc thù và vai trò của quân đội trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh (đây là âm mưu thâm độc đang được kẻ thù thúc đẩy ở Việt Nam và nhiều nước khác).
Mục tiêu của những hoạt động chống phá này là xóa bỏ vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với quân đội; làm suy yếu bản chất chính trị, tư tưởng và tính giai cấp của lực lượng vũ trang; từng bước biến quân đội thành lực lượng “phi chính trị”, “trung lập”, chỉ phục vụ lợi ích quốc gia theo quan điểm phương Tây; qua đó làm suy giảm sức mạnh chính trị, khả năng chiến đấu và ổn định chế độ xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc.
Trung Quốc coi các luận điểm như “quân đội quốc gia hóa”, “quân đội dân sự hóa” là mối đe dọa trực tiếp tới sự ổn định chính trị và sức mạnh quân đội. Dù thúc đẩy kết hợp quân sự-dân sự, nước này khẳng định đây không phải là việc thay thế quân đội bằng lực lượng quần chúng mà là phát huy sức mạnh toàn xã hội trên nền tảng một quân đội chính quy, chuyên nghiệp, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, Trung Quốc triển khai các biện pháp đồng bộ về chính trị, pháp lý, kinh tế, truyền thông và công nghệ nhằm bảo đảm quân đội luôn trung thành tuyệt đối với Đảng và không bị tác động bởi xu hướng “dân sự hóa”, “phi chính trị hóa”.
Bản chất chính trị của quân đội và những luận điệu cần bác bỏ từ thực tiễn Việt Nam
Nhà lý luận quân sự nổi tiếng của nước Phổ (nay là Cộng hòa Liên bang Đức) thế kỷ 19 Clausewitz từng nêu luận điểm được thừa nhận như một chân lý trong cả khoa học quân sự tư sản lẫn vô sản: “Chiến tranh là sự kế tục của chính trị bằng những biện pháp khác”. Thừa nhận bản chất chính trị của chiến tranh, tất yếu phải thấy rằng không có quân đội nào “đứng ngoài chính trị” hay “không liên quan đến chính trị”. Mọi cuộc chiến tranh đều nhằm đạt mục tiêu chính trị nhất định; quân đội của các bên tham chiến đều do lực lượng cầm quyền tổ chức, giáo dục và sử dụng để thực hiện mục tiêu đó.
Vì vậy, xây dựng quân đội về chính trị là yêu cầu khách quan, tồn tại ở mọi loại hình quân đội. Điểm khác nhau nằm ở cách đặt vị trí của xây dựng chính trị trong tổng thể xây dựng quân đội-đặc biệt là so với hiện đại hóa vũ khí, trang bị-và mức độ công khai bản chất cũng như nội dung giáo dục chính trị.
Lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và thực tiễn lịch sử đều khẳng định: Quân đội của bất kỳ quốc gia nào cũng do giai cấp nắm quyền lãnh đạo tổ chức nên, là công cụ bạo lực bảo vệ lợi ích và vị thế của giai cấp đó. Tính chất của nhà nước như thế nào thì quân đội-lực lượng bảo vệ nhà nước-mang bản chất tương ứng đến đó.
Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và lãnh đạo, ra đời trước khi chính quyền cách mạng được thiết lập. Chính vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng không chỉ là nguyên tắc căn bản đã được hiến định mà còn là nhân tố quyết định bản chất giai cấp, mục tiêu chiến đấu và chiến thắng của Quân đội. Vì vậy, sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng và sự trung thành tuyệt đối của Quân đội với Đảng là mối quan hệ biện chứng, thống nhất, không thể tách rời.
Từ lịch sử dựng nước và giữ nước, cha ông ta luôn coi trọng xây dựng Quân đội tinh nhuệ, “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng khẳng định giai cấp vô sản muốn bảo vệ thành quả cách mạng và xây dựng xã hội mới phải có quân đội đủ mạnh, thường xuyên được nâng cao sức chiến đấu để trở thành thành trì vững chắc trước mọi âm mưu xâm lược. Yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực phức tạp hiện nay, tăng cường tiềm lực quốc phòng và hiện đại hóa Quân đội để tự vệ chính đáng và giữ gìn hòa bình là nhiệm vụ cấp thiết. Đây không phải là điều “không cần thiết”, “lãng phí” hay “gây ảnh hưởng đến đời sống nhân dân” như luận điệu chống phá. Trái lại, điều này thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước; điều kiện, khả năng và đồng thuận xã hội trong mục tiêu xây dựng Quân đội hiện đại. Mặt khác, đặt trong mối quan hệ giữa “xây dựng” và “bảo vệ”, môi trường hòa bình, ổn định chính là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế, xã hội, xem nhẹ đầu tư cho quốc phòng đồng nghĩa với việc hạ thấp nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Là lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc, Quân đội nhất thiết phải được đầu tư tương xứng để bảo đảm sức mạnh, khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Hơn nữa, chủ trương đầu tư hiện đại hóa Quân đội được Đảng, Nhà nước tính toán kỹ lưỡng, phù hợp. Quân đội phát huy nội lực, sử dụng ngân sách hiệu quả cho nhiệm vụ này.
Đánh đồng hoạt động quân sự với hoạt động chuyên môn của cơ quan dân sự thuần túy, từ đó đòi “công khai hoạt động quân sự như dân sự”, là sự đánh tráo về bản chất giữa hai loại hình tổ chức hoàn toàn khác nhau. Quân đội là lực lượng vũ trang của Nhà nước, bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh vũ lực-lĩnh vực đặc biệt nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến an ninh, chủ quyền và sự tồn vong quốc gia. Các hoạt động của Quân đội, từ huấn luyện, bố trí lực lượng đến xây dựng kế hoạch tác chiến... đều mang tính bí mật, không thể và không bao giờ được công khai như hoạt động dân sự. Thông lệ quốc tế và nhiều bộ luật đều xác lập rõ nguyên tắc bảo mật trong lĩnh vực quốc phòng, bởi chỉ cần để lộ một phần nhỏ thông tin cũng có thể tạo ra nguy cơ chiến lược. Việc đòi hỏi Quân đội vận hành “công khai” như cơ quan dân sự thực chất không phải để tăng minh bạch mà nhằm vô hiệu hóa cơ chế phòng thủ, làm suy giảm sức mạnh răn đe, phá vỡ tính kỷ luật, bí mật quân sự.
Một kiểu đánh đồng khác là quy chụp việc Quân đội tham gia lao động sản xuất là “làm kinh tế thuần túy”. Cần thấy rằng, “vừa chiến đấu, vừa sản xuất”, trong đó chiến đấu là nhiệm vụ trung tâm; lao động, sản xuất là nhiệm vụ quan trọng nhằm góp phần phát triển kinh tế, giảm gánh nặng cho nhân dân và tăng cường tiềm lực quốc phòng, là chức năng, truyền thống của Quân đội ta. Chỉ nói “Quân đội làm kinh tế” không thôi, rồi đánh đồng với các tổ chức kinh tế dân sự khác là không phản ánh đầy đủ bản chất của hoạt động này. Quân đội tham gia lao động sản xuất trước hết phục vụ quốc phòng, đồng thời đóng góp cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Hiệu quả của các đoàn kinh tế-quốc phòng trong tạo sinh kế, xóa đói, giảm nghèo, ổn định dân cư; các doanh nghiệp Quân đội sản xuất các sản phẩm lưỡng dụng phục vụ quốc phòng và dân sinh... là minh chứng rõ nét cho điều này.
(còn nữa)