Đầu tháng 4 năm 1975, sau những thắng lợi liên tiếp của các đòn tiến công chiến lược của quân và dân ta, Bộ Chính trị nhận định: Cách mạng nước ta đang phát triển với nhịp độ “một ngày bằng hai mươi năm”; phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã đoàn kết một lòng, nỗ lực cao độ, tập trung lực lượng áp đảo, tạo thành sức mạnh như “triều dâng thác đổ”, tiến hành Chiến dịch Hồ Chí Minh - trận quyết chiến chiến lược quyết định. Đại thắng Mùa xuân năm 1975 đã kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Phát huy giá trị tinh thần của Đại thắng Mùa xuân 1975 và làm tròn sứ mệnh lịch sử trong thời đại mới, trải qua 50 năm xây dựng, bảo vệ và phát triển, Thành phố Hồ Chí Minh đã phát huy tính năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, phát huy trí tuệ, tâm huyết, tiềm lực của nhân dân, tạo ra những dấu ấn lịch sử quan trọng, góp thêm tư liệu thực tiễn sinh động vào công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
1. Thành phố nhanh chóng ổn định tình hình chính trị - xã hội, giữ vững chính quyền cách mạng những năm đầu sau giải phóng
Thành phố Sài Gòn - Gia Định năm đầu sau giải phóng phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thách thức. Các thế lực chống phá cách mạng vẫn còn ẩn nấp khắp nơi, gần 60 ngàn tội phạm các loại đã đào thoát khỏi nhà tù trong cuộc tháo chạy của chế độ cũ, hàng trăm ngàn trẻ bụi đời, thương phế binh, quả phụ không có công ăn, việc làm, nơi ở ổn định, nền văn hóa ngoại lai qua hàng chục năm chịu sự tác động của chiến tranh vẫn còn nhiều vấn đề trong đời sống tinh thần của thành phố. Trong khi đó, lực lượng cách mạng trong thành phố gần 4 triệu dân còn hết sức mỏng. Nhiệm vụ quan trọng nhất của thành phố sau ngày giải phóng là phải nhanh chóng ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội, đưa cuộc sống của nhân dân thành phố sớm trở lại hoạt động bình thường.
Dựa vào sức mạnh của quần chúng, Đảng bộ và chính quyền cách mạng đã giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội ngày càng ổn định và giải quyết kịp thời nhiều vấn đề cấp bách về kinh tế và đời sống; tập trung trấn áp bọn phản cách mạng một cách kiên quyết, kịp thời, tổ chức tốt việc học tập, cải tạo cho binh lính, sĩ quan và nhân viên chế độ cũ. Chính sách khoan hồng đầy tính nhân đạo của Đảng được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân và có tác dụng củng cố, mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc. Thông qua vận động quần chúng xây dựng các phong trào lao động sản xuất, làm thủy lợi, văn nghệ, xóa nạn mù chữ, vệ sinh… , chính quyền cách mạng đã tạo điều kiện cho nhân dân lao động bước đầu thực hiện trực tiếp quyền làm chủ tập thể của mình trong nhiều lĩnh vực đời sống xã hội.
Thành phố đã chống được nạn đói, khôi phục và phát triển sản xuất, giải quyết một phần quan trọng nạn thất nghiệp do chế độ cũ để lại, tổ chức mạng lưới phân phối lương thực và một số hàng hóa thiết yếu khác cho nhân dân, cải tạo và phát triển văn hóa, ổn định dần đời sống nhân dân. Giai cấp công nhân, nông dân ngoại thành, thanh niên, trí thức, cán bộ khoa học kỹ thuật và các tầng lớp nhân dân khác đã phát huy tinh thần tự lực tự cường, lao động dũng cảm và sáng tạo, ra sức khắc phục khó khăn về nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, phụ tùng thay thế, phân bón, đã bảo đảm điện nước và những nhu cầu sinh hoạt bình thường của thành phố sau giải phóng. Nhìn chung, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp về cơ bản được phục hồi, một số ngành nghề công nghiệp bước đầu phát triển; nông nghiệp ở ngoại thành được đẩy mạnh, diện tích canh tác và sản lượng đều tăng hơn trước ngày giải phóng, phong trào toàn dân làm thủy lợi được phát động rộng rãi, đào đắp hàng triệu mét khối đất.
Thành phố cũng bước đầu phân bố lại lực lượng lao động, bố trí lại dân cư, tổ chức cho hơn 700.000 đồng bào về quê cũ, ra ngoại thành hoặc đi xây dựng vùng kinh tế mới ở các tỉnh miền Đông và một số nơi ở miền Tây Nam bộ. Đông đảo nhân dân hiểu được chủ trương hồi hương lập nghiệp, nhiều người đã kiên quyết vượt qua khó khăn, tích cực lao động sản xuất, xây dựng quê hương mới.
Với những thành quả đạt được trong 2 năm 1975 và 1976, thành phố đã đập tan bộ máy ngụy quân, ngụy quyền, khôi phục và phát triển kinh tế, ổn định bước đầu đời sống nhân dân tạo điều kiện chuyển mạnh sang thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thành phố đang trên xu thế đi lên với nhiều khả năng và triển vọng mới. Điều có ý nghĩa quyết định để hoàn thành nhiệm vụ là Đảng bộ phải quán triệt Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng, đi sâu vào thực tiễn, cụ thể hóa đường lối, chính sách của Trung ương; thực hiện đầy đủ và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, thu hút sức người, sức của; tập trung chỉ đạo và giải quyết dứt điểm những khâu then chốt, bằng quyết tâm mới, năng lực mới, với kiến thức cần thiết, phương pháp phù hợp để phát huy tinh thần cách mạng tiến công của mỗi cán bộ, đảng viên.
2. Thành phố mạnh dạn “xé rào”, tháo gỡ “điểm nghẽn” để khôi phục và phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân
Từ năm 1979 trở đi, nền kinh tế thành phố bắt đầu bộc lộ những hạn chế khi sản lượng công nghiệp quốc doanh sụt giảm nghiêm trọng, ngành công thương nghiệp gặp nhiều khó khăn, các nông trường, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp làm ăn thua lỗ. Cùng với mùa màng thất bát, chế độ bao cấp về thực phẩm đã đẩy 3,5 triệu dân vào nạn thiếu đói, người dân phải ăn cơm độn, có lúc phải độn đến 90%. Hai nhiệm vụ được đặt ra đối với lãnh đạo thành phố lúc này, đó là lo cái ăn cho nhân dân và vực dậy nền sản xuất đang đình trệ.
Với sự linh hoạt, năng động, sáng tạo của mình, nắm vững các chủ trương của Đảng và Nhà nước, bám sát tình hình thực tiễn, vận dụng những bài học kinh nghiệm trong các thời kỳ kháng chiến và với tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, Đảng bộ, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh kiên trì từng bước để tháo gỡ, vượt qua những lực cản của cơ chế cũ, tiếp tục tìm tòi hướng đi phù hợp, tạo điều kiện cho sản xuất bung ra để thoát dần cơ chế quan liêu, bao cấp gắn với giải quyết việc làm, chăm lo đời sống nhân dân, làm sáng tỏ dần con đường đi lên với cách làm mới, tư duy mới, góp phần tích cực vào việc xác định và hình thành đường lối đổi mới của Đảng.
Hàng loạt đơn vị sản xuất, kinh doanh chủ động “xé rào”, tiến hành tổ chức lại sản xuất, liên kết với các tỉnh khai thác nguyên liệu, cung ứng thành phẩm, xây dựng phương án sản xuất ngoài kế hoạch được giao; làm gia tăng năng suất, hiệu quả và chất lượng sản phẩm, nâng cao thu nhập cho công nhân. Có thể kể đến Công ty Bột giặt miền Nam, Xí nghiệp Thuốc lá Vĩnh Hội, Công ty Lương thực; các xí nghiệp: Dệt Thành Công, Thắng Lợi, Phong Phú, Phước Long; cơ khí Caric, Silico, Vinapro, Sinco, Dược Thú y… Đời sống nông dân cũng từng bước ổn định; sản xuất nông nghiệp có bước phát triển từ “vành đai trắng” trong chiến tranh chuyển thành “vành đai xanh”.
Nhận thức của Đảng bộ và chính quyền thành phố trên lĩnh vực phân phối lưu thông đã chuyển biến theo hướng ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn: kết hợp cải tạo với xây dựng, tổ chức lại mạng lưới tiểu thương rộng lớn ở thành phố với những hình thức phù hợp, tăng cường quản lý thị trường xã hội… Thành phố tiến hành liên kết và mở rộng giao lưu hàng hóa với các tỉnh, tích cực đầu tư chiều sâu cho nông thôn ngoại thành, cải tiến phương thức phân phối và phục vụ… Thành phố còn là địa phương đi đầu trong hoạt động xuất nhập khẩu với nhiều mô hình tiêu biểu như Direximco, Imex Saigon, Cholimex, Ficonimex, Pharimex…
Đồng thời, Đảng bộ và chính quyền thành phố dựa vào dân làm thất bại âm mưu gây bạo loạn, lật đổ của các phe, nhóm phản động có sự ủng hộ của các thế lực thù địch ở nước ngoài, giữ vững trật tự trị an, bảo vệ thành quả cách mạng; nêu cao sự tin tưởng và phát huy quyền làm chủ, sức mạnh trí tuệ, nguồn lực của nhân dân, vì lợi ích nhân dân, lợi ích dân tộc; phát huy tinh thần năng động sáng tạo, trí tuệ của đội ngũ trí thức để tìm mọi giải pháp tháo gỡ khó khăn, khôi phục sản xuất, dịch vụ, chăm lo cải thiện đời sống của nhân dân.
Có thể nói rằng, những sáng kiến và nhiều biện pháp ban đầu chỉ là biện pháp tình thế nhưng kết quả thực tiễn sinh động của Thành phố Hồ Chí Minh lúc bấy giờ đã trở thành cơ sở quan trọng cho lãnh đạo Đảng có những quyết sách, để hoạch định mô hình phát triển kinh tế kể từ Đại hội VI, tháng 12 năm 1986.
3. Thành phố bám sát thực tiễn, sáng tạo trong cách nghĩ, cách làm, đóng góp quan trọng vào quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Thành phố Hồ Chí Minh được xem là nơi hình thành những yếu tố mới đóng góp vào quá trình hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta. Đây chính là động lực cho thành phố vững vàng bước vào thời kỳ đổi mới, đồng thời tạo điều kiện cho thành phố thực hiện những cơ chế và chính sách mang tính thí điểm, đột phá nhằm tạo ra những bài học thực tiễn làm cơ sở hình thành những chính sách và cơ chế quản lý chung của cả nước, góp phần quan trọng vào sự hình thành và hoàn thiện thể chế chính sách vận hành kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Có thể điểm qua một số dấu ấn tiêu biểu như:
Thành phố nghiên cứu và thành lập các khu chế xuất, khu công nghiệp ngay từ rất sớm. Từ tháng 10 năm 1992, thành phố đã tiến hành thí điểm cổ phần hóa 4 doanh nghiệp nhà nước do thành phố quản lý và 3 doanh nghiệp nhà nước do Trung ương quản lý, tạo cơ sở thực tiễn để hoàn thiện chính sách, bước đi, cách làm sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Khu chế xuất Tân Thuận, Linh Trung là nơi hình thành sớm nhất (tháng 2-1992) và tiếp theo là các khu công nghiệp đã tập trung, phá thế bao vây, cấm vận, thu hút vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý để phát triển công nghiệp, dịch vụ, tạo công ăn việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tạo nhiều kinh nghiệm cho việc hoàn thiện chủ trương, chính sách chung và triển khai trên phạm vi cả nước.
Thành phố cũng là địa phương đi đầu cả nước trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, phát triển kinh tế tri thức, hình thành các mô hình khoa học - công nghệ. Điển hình như: Khu công nghệ cao thành phố thu hút đầu tư nước ngoài, huy động các nguồn lực trong nước về khoa học và công nghệ cao, hình thành một lực lượng sản xuất hiện đại, kết hợp có hiệu quả giữa sản xuất kinh doanh với nghiên cứu, tiếp thu, chuyển giao, phát triển công nghệ cao và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho công nghiệp công nghệ cao, tạo động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Công viên Phần mềm Quang Trung thu hút được 142 doanh nghiệp công nghệ thông tin, trong đó có 6 doanh nghiệp có quy mô trên 1.000 người với 650 sản phẩm, giải pháp và là nơi phục vụ cho 21.621 người học tập, làm việc thường xuyên, là công viên phần mềm đầu tiên và lớn nhất tại Việt Nam hiện nay; Khu nông nghiệp công nghệ cao tạo ra mô hình sản xuất nông nghiệp tiên tiến, từng bước hiện đại hóa nông nghiệp - nông thôn, chuyển đổi nền nông nghiệp truyền thống sang nền nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao…
Thành phố triển khai thực hiện các mô hình điều hành kinh tế vĩ mô và cải cách hành chính đạt hiệu quả như: chương trình kết nối doanh nghiệp với ngân hàng giúp doanh nghiệp có được nguồn vốn tín dụng với lãi suất hợp lý; các chương trình xúc tiến đầu tư, kết nối doanh nghiệp với doanh nghiệp, các chương trình xúc tiến thương mại trong và ngoài nước, chương trình đưa hàng hóa Việt Nam về nông thôn, về các khu công nghiệp, điển hình như Liên hiệp Hợp tác xã Thương mại thành phố, Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn… Triển khai mô hình “một cửa, một dấu” ở một số quận, huyện từ năm 1995; sau đó phát triển thành cơ chế “một cửa liên thông” đã nâng cao rõ rệt chất lượng về công vụ, nâng cao sự hài lòng của người dân.
Thành phố sớm nhận thức vị trí, yêu cầu của quản lý, phát triển đô thị; tập trung nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, quản lý theo quy hoạch, phát triển đô thị, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng; không gian đô thị mở rộng, phục vụ phát triển công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp, văn hóa - xã hội, cải thiện dân sinh, điển hình như: hệ thống kênh Đông (Củ Chi), kênh Tân Hóa - Lò Gốm, kênh Tham Lương - Bến Cát - Rạch Nước Lên, kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè… Thành phố cũng là địa phương triển khai sớm nhất phương thức quản lý đô thị thông minh và xây dựng khu đô thị sáng tạo tương tác cao phía Đông.
Thành phố thực hiện nhiều chính sách thu hút vốn đầu tư xã hội vào phát triển kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị, làm cho hệ thống hạ tầng, diện mạo đô thị ở nhiều khu vực thay đổi vượt bậc như: tổ chức Quỹ đầu tư phát triển đô thị; phát hành trái phiếu dự án và trái phiếu đô thị; nhượng quyền khai thác đường cho các thành phần kinh tế; thành lập các công ty cổ phần đại chúng để thực hiện các dự án đầu tư vào dịch vụ hạ tầng kỹ thuật thành phố; thực hiện xã hội hóa, hỗ trợ lãi suất tiền vay ngân hàng cho các đơn vị trường học, bệnh viện đầu tư hạ tầng kỹ thuật nâng cao chất lượng phục vụ; thực hiện chủ trương đổi đất lấy hạ tầng để giải quyết bài toán phát triển đô thị.
4. Thành phố nhân rộng và lan tỏa truyền thống nhân ái, nghĩa tình
Cùng với phát triển kinh tế, truyền thống nhân ái, nghĩa tình là một đặc trưng văn hóa dân tộc được kế thừa và phát triển ngày càng sâu đậm và phổ biến trong nhận thức, quan hệ ứng xử của nhân dân thành phố.
Đảng bộ phát động rất sớm phong trào đền ơn đáp nghĩa, giáo dục sâu sắc truyền thống uống nước, nhớ nguồn, được sự hưởng ứng tự giác, mạnh mẽ, rộng rãi, sôi nổi, liên tục của đông đảo nhân dân, tạo ra một sức sống mới, luôn được bổ sung cách làm sáng tạo, thiết thực, xuất phát từ lòng biết ơn sâu sắc công lao trời biển của các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, mẹ liệt sĩ, công lao của anh hùng, liệt sĩ và người có công với cách mạng, với đất nước. Nhiều hoạt động thiết thực như: xây nhà tình nghĩa, mở sổ tiết kiệm, nhận phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, mẹ liệt sĩ, đỡ đầu con, em liệt sĩ, hỗ trợ phương tiện làm ăn… đã lan tỏa trong xã hội.
Thành phố là nơi khởi xướng chương trình “Xóa đói giảm nghèo”, một chương trình mang ý nghĩa vừa cấp bách vừa có tính chiến lược lâu dài, đã trở thành chương trình hành động của cả nước với một hệ thống các giải pháp đồng bộ đặt trên nền tảng nâng cao năng lực vượt nghèo của người nghèo, hộ nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố, đầu tư cho các xã nghèo, phường nghèo, ngoại thành và vùng ven; giúp người nghèo được trợ vốn, tạo vốn, tiếp cận nguồn vốn tín dụng; xóa mù chữ, nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp của người nghèo, đặc biệt là con em của họ; giới thiệu việc làm; hướng dẫn cách làm ăn, phương tiện mưu sinh, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, giúp tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ; tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản giáo dục, y tế, cấp điện, nước, thông tin liên lạc… có chất lượng; giúp xây mới, nâng cấp, sửa chữa nhà ở, chỗ ở, cải thiện phương tiện đi lại… Rất nhiều sáng kiến của nhân dân, của doanh nghiệp, của các tổ chức chính trị xã hội được thực hiện bền bỉ; trăn trở tìm kiếm các giải pháp, cách hỗ trợ, giúp đỡ để người dân có thêm điều kiện, nghị lực vượt qua khó khăn, kiên trì lao động, sản xuất và tổ chức tốt cuộc sống gia đình, vươn lên thoát nghèo, có việc làm phù hợp, vượt nghèo bền vững. Xóa đói, giảm nghèo là một thành tựu rất to lớn, nổi bật, thể hiện đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, hiện thực hóa đường lối đúng đắn của Đảng ta, mong muốn thiết tha của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể hiện bản chất cách mạng của Đảng Cộng sản cầm quyền, thể hiện phẩm hạnh của mỗi người đảng viên.
Thành phố cũng là nơi đầu tiên hình thành cơ sở dạy nghề cho người khuyết tật, cơ sở nuôi dưỡng, bảo trợ trẻ HIV/AIDS; đồng thời cũng là nơi nghiên cứu đề xuất Quốc hội khóa XI chấp thuận cho thực hiện Đề án “Tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện” giúp người sau cai tự tin hòa nhập cộng đồng. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm đặc biệt, thành phố là nơi đầu tiên trong cả nước hình thành mô hình “Bệnh viện miễn phí” dành cho người nghèo, người có hoàn thành khó khăn. Từ thực tiễn đó, phong trào “chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân nghèo” được nhân rộng ra cả nước. Hội Bảo trợ bệnh nhân nghèo Thành phố Hồ Chí Minh, một mô hình sáng tạo trong chăm lo người nghèo, được thành lập 31 năm (22-1-1994) với nhiệm vụ chính là chăm lo, giúp đỡ, chăm sóc cho những bệnh nhân nghèo ở thành phố cũng như các tỉnh bạn và cả nhân dân nước bạn Lào, Campuchia có điều kiện khám chữa bệnh miễn phí, là cầu nối giúp những người có hoàn cảnh không may như đau ốm, tai nạn rủi ro… có cơ hội chữa bệnh để sớm hòa nhập cuộc sống cộng đồng với nhiều chương trình từ thiện.
Thành phố chung sức chung lòng cùng cả nước cứu trợ đồng bào bị thiên tai, lũ lụt, hỗ trợ các tỉnh bạn trong nước và tỉnh bạn láng giềng gặp khó khăn, góp với các tỉnh miền núi, biên giới, hải đảo xây dựng trường học, bệnh viện, nhà tình nghĩa, nhà tình thương và cơ sở hạ tầng, kỹ thuật như hoạt động ủng hộ Quỹ “Vì Trường Sa thân yêu, vì tuyến đầu Tổ quốc”, các chương trình “Góp đá xây Trường Sa”, “Tấm lưới nghĩa tình”, “Tiếp sức vì Trường Sa thân yêu”, các phong trào tình nguyện, tiếp sức mùa thi... Với cách thức lan tỏa từ xây dựng, củng cố và nhân rộng các mô hình điển hình tiên tiến hoạt động có hiệu quả theo hướng xã hội hóa, Thành phố Hồ Chí Minh liên tục xuất hiện nhiều mô hình hiệu quả khác nhau như “Nhà trọ tự quản”, “Tổ xe ôm tự quản”, “Nghiệp đoàn bốc xếp tự quản về an ninh trật tự”, “Tổ công nhân đường phố phòng, chống tội phạm”, “Camera quan sát an ninh trật tự”…
Thành phố Hồ Chí Minh là nơi “hội tụ” và “lan tỏa”, thu hút một lực lượng lớn lao động, cả trí thức, văn nghệ sĩ, các tầng lớp nhân dân từ các địa phương đến để định cư, phát triển nghề nghiệp, cùng thống nhất, đồng lòng vì sự phát triển của thành phố. Và sự lan tỏa các phong trào nhân ái, nghĩa tình chính là cách thành phố vì cả nước, cùng cả nước; là tình cảm, trách nhiệm, nghĩa tình của thành phố đền đáp cùng cả nước. Với ý nghĩa đó, hàng năm, thành phố ký kết với nhiều địa phương, ngành, đơn vị trong cả nước các chương trình hợp tác phát triển kinh tế - xã hội, chia sẻ kinh nghiệm, nguồn lực, hỗ trợ nhau phát triển.
5. Thành phố “đồng lòng, chung sức” trong phòng, chống đại dịch Covid-19
Đại dịch Covid-19 xuất hiện gây ra bao đau thương, mất mát. Với đặc thù là một đô thị có mật độ dân số cao, nhiều khu nhà trọ chật hẹp, giao thông còn nhiều bất cập, hệ thống y tế cơ sở chưa hoàn chỉnh, Thành phố Hồ Chí Minh đã bị tổn thương lớn do đại dịch Covid-19. Từ đầu năm 2020 đến cuối năm 2021 và cao điểm là 150 ngày (29-4-2021 - 01-10-2021), thành phố là địa phương chịu thiệt hại nặng nề nhất trong cả nước. Thành phố nhanh chóng thành lập Ban chỉ đạo phòng, chống dịch và triển khai ngay các biện pháp phòng, chống dịch phù hợp với địa phương; kịp thời huy động các chuyên gia y tế, các nhà quản lý đương chức và hưu trí để lắng nghe các hiến kế, đề xuất, kiến nghị. Thành phố đã có nhiều cách làm hay, sáng tạo, các phong trào, mô hình hiệu quả trong phòng, chống dịch Covid-19 như: các tổ Covid-19 cộng đồng, trạm y tế lưu động, mô hình “Tháp 3 tầng” trong phân tầng điều trị Covid-19, Cổng thông tin 1022, Trung tâm an sinh xã hội, chương trình kết nối hỗ trợ nông dân tiêu thụ nông sản…
Với tinh thần “lấy sức dân chăm lo cho dân”, thành phố đã huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và nhân dân, doanh nghiệp trên địa bàn thành phố. Công tác an sinh xã hội được dấy lên như một cao trào cách mạng và trở thành một trong những điểm sáng của thành phố. Hàng ngàn tỷ đồng được ủng hộ để chăm lo cho người dân, lực lượng tuyến đầu, mua sắm vật tư, trang thiết bị bảo hộ... phục vụ cho công tác phòng chống dịch Covid-19. Vai trò tập hợp lực lượng, động viên mọi nguồn lực của Mặt trận Tổ quốc thành phố được phát huy cao độ; sự tham gia hết sức tích cực của các thành viên hệ thống chính trị như Hội Cựu chiến binh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Liên đoàn Lao động, Hội Nông dân, Thành đoàn… và các tổ chức xã hội với biết bao phong trào đầy sự sáng tạo và chan chứa tình người như “Nghĩa tình đồng đội”, “Người nội trợ”, “Nối nhịp sống - Chở yêu thương”, “Triệu túi an sinh”, “Vòng tay Việt”, “Sài Gòn thương nhau”, “ATM gạo”, “Phiên chợ nghĩa tình”… đã góp phần tích cực vào công tác an sinh xã hội của thành phố trong mọi tình huống dịch bệnh. Với truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái, với sự thúc giục “chống dịch như chống giặc” mọi người dân thành phố đã vào cuộc chiến phòng chống dịch với tinh thần “Ai có sức giúp sức, ai có của góp của” đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, là nguồn lực vô tận, góp phần quan trọng vào công cuộc phòng chống dịch của thành phố. Sức mạnh đó được tăng lên bội phần khi cả nước đồng lòng “Vì Thành phố Hồ Chí Minh”, hỗ trợ sức người, sức của bằng nhiều hình thức, nhiều ngả đường đã tạo nên sức mạnh vật chất, ấm áp tình người cho thành phố vượt qua thử thách gian nan khốc liệt, vơi bớt nỗi đau mất mát do đại dịch Covid-19 gây ra, dần dần khống chế được dịch bệnh, đưa sản xuất, kinh doanh, đời sống của người dân sang trạng thái “bình thường mới”.
6. Thành phố chú trọng xây dựng “thế trận lòng dân” trong công tác quốc phòng - an ninh
Thành phố được xác định là địa bàn trọng yếu, có vị trí chiến lược về quốc phòng - an ninh, là địa bàn mà các thế lực thù địch, các tổ chức phản động, số đối tượng chống đối, cơ hội chính trị trong và ngoài nước tập trung chống phá, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là vào dịp diễn ra các sự kiện chính trị, lễ hội quan trọng của đất nước, lợi dụng tình hình Biển Đông, các vấn đề về dân tộc, tôn giáo, giải quyết đền bù giải phóng mặt bằng, các điểm nóng, nhạy cảm, công tác phòng, chống tham nhũng, dịch bệnh Covid-19… để xuyên tạc quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, lãnh đạo, chính quyền thành phố, gây hoang mang nghi ngờ trong nhân dân.
Với vị trí chiến lược, những đặc điểm, tính chất đặc thù, thành phố đã thực hiện nhiều biện pháp, giải pháp về quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Thành phố luôn coi trọng việc quy tụ “ý Đảng, lòng dân”, xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân”, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nhân dân, lấy lực lượng vũ trang thành phố làm nòng cốt để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh.
Thành phố thường xuyên đổi mới phương thức tuyên truyền theo hướng đa dạng hóa về hình thức, nội dung phong phú, có trọng tâm, trọng điểm, ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với từng địa bàn, từng đối tượng. Kết hợp chặt chẽ giữa vận động thường xuyên, rộng rãi với vận động tập trung và vận động cá biệt; chú trọng công tác tuyên truyền miệng thông qua tiếp xúc với nhân dân, các cuộc sinh hoạt tổ dân phố, tổ nhân dân; dùng loa phát thanh, đài truyền thanh, phát hành bản tin, tờ bướm, dựng panô, áp phích, tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề, thông qua các cuộc họp định kỳ, đột xuất nhằm tuyên truyền sâu rộng đến đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân; tăng cường hình thức tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, tranh thủ, phát huy vai trò của người có uy tín trong các tôn giáo, dân tộc, dòng họ ở các khu dân cư để đẩy mạnh công tác vận động nhân dân.
Từ đó, người dân thành phố hình thành thói quen chọn lựa theo dõi thông tin được các cơ quan chức năng đăng tải về những sự việc có ảnh hưởng lớn đến tình hình an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; chủ động phát hiện và tố giác tội phạm, phê phán, đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật; ý thức và trách nhiệm của các địa phương, đơn vị, cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với công tác xây dựng, nhân rộng mô hình, điển hình tiên tiến trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, đấu tranh phòng chống tội phạm ngày càng được nâng lên, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, khả năng tiềm tàng, sáng tạo, ý thức và trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tình hình mới.
7. Đảng bộ thành phố luôn ở vị trí trung tâm của các sự kiện quan trọng, xử lý hiệu quả các vấn đề mới, khó khăn, thách thức xuất hiện trong quá trình phát triển bằng các chủ trương, quyết định đúng đắn, năng động, sáng tạo
Đảng bộ thành phố luôn quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng, đồng thời bám sát thực tiễn, nhận định sát đúng tình hình, kiên định “chân lý là cụ thể”, tìm trong thực tiễn lời giải cho vấn đề đặt ra. Luôn gắn bó máu thịt với nhân dân; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tin dân, tin vào con người; trọng dân, học dân, dựa vào dân, phát huy sức dân; hết lòng chăm lo đời sống nhân dân.
Công tác xây dựng Đảng xuất hiện nhiều dấu ấn nổi bật như: Thành phố đã thực hiện chương trình đào tạo cán bộ trẻ tuổi, chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ trong và nước ngoài, chương trình tạo nguồn cán bộ xuất thân từ công nhân... ngay từ rất sớm. Đây là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, đi đầu cả nước của Đảng bộ thành phố trong nhiều nhiệm kỳ. Nhờ đó, đã góp phần tuyển chọn, đào tạo sinh viên, cán bộ, công chức, viên chức trẻ có triển vọng phát triển tốt, tạo nguồn quy hoạch, rèn luyện qua thực tiễn trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, cán bộ khoa học, công nghệ và khoa học - xã hội nhân văn, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và bổ sung đội ngũ cán bộ chủ chốt cho các địa phương, cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị thành phố. Nhiều đồng chí qua đào tạo đã nắm giữ các vị trí lãnh đạo từ phường, xã đến quận, huyện và thành phố. Đây là vốn quý, là nguồn lực cán bộ lãnh đạo, quản lý có chất lượng cho hệ thống chính trị của thành phố trong những năm qua và những năm tới.
Với niềm vinh dự và tự hào là thành phố được mang tên Bác, Thành phố Hồ Chí Minh trở thành địa phương đầu tiên trong cả nước xác định mục tiêu, giải pháp, quyết tâm chính trị trong xây dựng Không gian văn hóa Hồ Chí Minh, làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người luôn hiện hữu, lan tỏa trong đời sống xã hội, trở thành nét văn hóa đặc trưng mới của người dân thành phố. Việc học tập và làm theo Bác tại thành phố đã dần thấm sâu, trở thành nét đẹp văn hóa trong các cộng đồng dân cư, dân tộc, tôn giáo với nhiều cách làm sáng tạo, thiết thực, hiệu quả; xuất hiện ngày càng nhiều tấm gương nhân ái, nghĩa tình, nhiều việc làm và nghĩa cử cao đẹp, mang tính nhân văn sâu sắc. Thiết chế Không gian văn hóa Hồ Chí Minh được xây dựng và hiện diện ở mọi nơi trong đời sống xã hội, từ các cơ quan, công sở, cơ sở tôn giáo, trường học, doanh nghiệp và về đến các khu dân cư, đến từng nhà dân. Thành phố tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, giới thiệu, tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh đến các địa phương trong nước và quốc tế; tổ chức các hoạt động sáng tác, xuất bản tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí, phim tư liệu, phóng sự, truyền hình về Chủ tịch Hồ Chí Minh, đưa phong trào học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn sát với thực tiễn, lan tỏa trong cộng đồng, xây dựng những mô hình, cách làm hay, hiệu quả; cải tạo, nâng cấp, xây dựng các di tích, địa chỉ gắn liền với Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Phát huy thắng lợi của Đại thắng Mùa xuân 1975, với tinh thần “một ngày bằng hai mươi năm”, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đồng lòng, chung sức thực hiện kỳ vọng của Bác Hồ kính yêu, của Đảng ta cùng các thế hệ cách mạng đi trước, vượt bao khó khăn, thách thức, phát huy truyền thống cách mạng kiên cường, đoàn kết, năng động, sáng tạo, nghĩa tình, luôn bám sát thực tiễn, gắn bó mật thiết với nhân dân, quyết tâm xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành trung tâm kinh tế, tài chính, dịch vụ, văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo của khu vực Đông Nam Á và châu Á, xứng đáng với niềm tin yêu của cả nước, xứng đáng với thành phố mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại - Thành phố Anh hùng, “cùng cả nước, vì cả nước” vững bước tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Thường trực Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh