Đảng đưa dân ra biên - dân cùng Đảng giữ đất

Đảng đưa dân ra biên - dân cùng Đảng giữ đất
17 giờ trướcBài gốc
Bài 1: Dựng bản, lập nghiệp nơi biên viễn
Có thời điểm, biên giới Điện Biên “nóng” bởi tình trạng di cư tự do, vượt biên, truyền đạo trái phép, đe dọa an ninh trật tự và xâm phạm chủ quyền quốc gia. Đặc biệt sau khi tỉnh Điện Biên được chia tách, thành lập năm 2004, những vấn đề ấy càng trở nên gay gắt. Trong bối cảnh ấy, Đảng, Nhà nước đã ban hành chủ trương giãn dân ra biên giới, sắp xếp ổn định dân di cư tự do, vừa để giải quyết nhu cầu an cư, lập nghiệp, vừa khẳng định quyết tâm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Sau 17 năm giãn dân ra biên giới, bản Huổi Thanh 1 (xã Nậm Kè) đã trở thành điểm dân cư vững chãi nơi phên dậu. Trong ảnh: Đồng bào dân tộc Sán Chay trao đổi với cán bộ xã Nậm Kè.
Quyết sách chiến lược
Điện Biên có đường biên giới dài hơn 455km, tiếp giáp Lào và Trung Quốc, giữ vị trí then chốt trong bảo đảm quốc phòng - an ninh vùng Tây Bắc. Song, địa hình hiểm trở, dân cư thưa, đời sống khó khăn từng khiến nơi đây trở thành mảnh đất nhiều thử thách. Nhất là trên tuyến biên giới Việt - Trung dài 40,86km, khi chưa hoàn thành cắm mốc, tình trạng truyền đạo trái phép, vượt biên, buôn bán ma túy, vi phạm chủ quyền biên giới quốc gia phức tạp, tiềm ẩn nhiều bất ổn.
Đặc biệt giai đoạn 2002 - 2012, huyện Mường Nhé cũ trở thành “điểm nóng” về dân di cư tự do. Dân số huyện từ khoảng 26.000 người (năm 2002) tăng lên 60.000 người (năm 2012), vượt quá khả năng quản lý và quy hoạch. Hệ quả là rừng bị tàn phá, đất sản xuất bị chia cắt, an ninh chính trị phức tạp. Đỉnh điểm năm 2011, tại bản Huổi Khon (xã Nậm Kè) xảy ra vụ tụ tập khoảng 7.000 người từ các tỉnh: Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Cao Bằng... đổ về đòi thành lập “Nhà nước Mông”, gây mất an ninh chính trị, trật tự trên địa bàn.
Để giữ đất, giữ dân, Đảng và Nhà nước đã ban hành quyết sách về giãn dân, ổn định dân cư vùng biên giới như: Quyết định 120/2003/QĐ-TTg về phát triển kinh tế - xã hội tuyến biên giới Việt - Trung; Quyết định 141/QĐ-TTg về ổn định dân di cư tự do giai đoạn 2008 - 2012; Quyết định 79/QĐ-TTg (Đề án 79) về sắp xếp, ổn định dân cư gắn với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh đến năm 2015. Đây không chỉ là những chính sách kinh tế - xã hội đơn thuần, mà là tầm nhìn chiến lược bảo vệ biên cương.
Sự vào cuộc quyết liệt của cấp ủy, chính quyền các cấp, nhiều bản đã hình thành, trở thành những “cột mốc sống” nơi phên dậu. Điển hình, bản Chiếu Sừng (xã Sen Thượng, nay là xã Sín Thầu) được thành lập năm 2012 theo Đề án 79, với 22 hộ dân sinh sống sát tuyến biên giới Việt - Trung. Ông Phùng Xè Tư kể lại: “Ngày ấy, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước đưa dân ra biên giới, gia đình tôi cùng bà con đều đồng lòng đi theo. Cuộc sống ban đầu thiếu thốn, nhưng ai cũng xác định ra đây không chỉ để dựng nhà, làm nương, mà quan trọng hơn là góp phần giữ biên cương”.
Theo Thượng úy Nguyễn Văn Dũng, Trợ lý Dân vận, Ban Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, hiện trên địa bàn tỉnh còn 15 xã biên giới (trước đây 29 xã), với 300 thôn, bản và 3 cụm dân cư, trong đó có 117 bản giáp biên giới. Cùng đó 31 bản ổn định dân di cư theo Đề án 79 đã hình thành. Với mục tiêu không để biên giới “trắng dân”, cơ quan chức năng tiếp tục khảo sát, vận động nhân dân ra biên giới định canh, định cư, vừa ổn định đời sống, vừa tham gia phong trào toàn dân bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia.
Gian nan dựng bản, bền gan giữ đất
Chủ trương giãn dân, ổn định dân cư đã mở ra trang mới cho công cuộc dựng bản, giữ biên ở Điện Biên. Nhưng để hiện thực hóa quyết sách ấy là hành trình đầy gian nan, thử thách. Bởi đưa dân ra biên không chỉ là dựng nhà, chia đất mà còn thay đổi tập quán, tạo sinh kế, gieo niềm tin để người dân yên tâm bám trụ. Đây là quá trình đòi hỏi sự kiên trì và quyết tâm lớn của Đảng bộ, chính quyền các cấp tỉnh.
Năm 2003, bản Tá Miếu (xã Sín Thầu) giãn dân ra biên giới theo Quyết định 120/2003/QĐ-TTg. Bản có vị trí đặc biệt về quốc phòng - an ninh khi nằm ở ngã ba biên giới Việt - Lào - Trung, nơi có cột mốc số 0 trên đỉnh Khoang La San cao 1.864m, được ví là nơi “con gà gáy ba nước cùng nghe”. Ngày mới lập, 31 hộ với 158 nhân khẩu người Hà Nhì dựng nhà tạm giữa núi cao mây phủ, quanh năm gió rét, sương mù. Đường đi cheo leo, lương thực gùi bộ từ trung tâm xã, nước sinh hoạt khan hiếm. Cơm độn ngô, rau rừng thay bữa; muối phải chia từng nhúm. Gian khó khiến không ít người thoáng chốc nản lòng.
Ông Pờ Dần Sinh, nguyên Bí thư Đảng ủy xã Sín Thầu kể lại: Ngày ấy, bà con lên núi dựng bản, gian nan không kể xiết. Thời gian đầu, nhiều hộ không chịu nổi vất vả nên quay lại bản cũ hoặc đi nơi khác. Cán bộ, bộ đội biên phòng phải đồng hành từng bước, hỗ trợ lúa giống, ngô giống, cùng bà con phát nương, trồng trọt, chăn nuôi. Khi thấy con có trường học, gia đình có miếng cơm, bà con mới yên tâm ở lại. Cái nghèo dù vẫn còn, nhưng ý chí bám đất giữ bản chưa bao giờ nguội. Đến nay, Tá Miếu đã có đường bê tông đến tận bản, điện lưới quốc gia, trường học khang trang, nhiều hộ thoát nghèo và vươn lên khá giả. Bản không chỉ giữ vững ổn định dân cư trên điểm cao biên giới mà còn trở thành chỗ dựa vững chắc về quốc phòng - an ninh”.
Nếu Tá Miếu là minh chứng cho sức sống bền bỉ nơi phên dậu, thì bản Huổi Thanh 1 (xã Nậm Kè) lại khắc họa hành trình vượt khó của hơn 30 hộ dân từ Cao Bằng theo chương trình giãn dân biên giới Việt - Lào năm 2008. Từ vùng đất hoang hóa, không điện, không nước, nay bản đã có 98 hộ của 3 dân tộc Sán Chay, Dao, Mông cùng sinh sống. Bằng quyết tâm bám đất, bà con dựng nhà, trồng trọt, ổn định cuộc sống, biến Huổi Thanh 1 thành điểm dân cư vững chãi nơi phên dậu, khẳng định ý chí vững vàng của những con người chọn ở lại để giữ đất, giữ bản.
Song, không phải nơi nào cũng thuận lợi. Như bản Cà Là Pá 1 (xã Leng Su Sìn, nay là xã Sín Thầu) thành lập năm 2015, chỉ sau thời gian, một nửa số hộ đã bỏ đi nơi khác. Thiếu sinh kế, hạ tầng yếu kém khiến bà con khó an cư lâu dài. Câu chuyện “giữ dân ở lại khó hơn đưa dân ra biên” từng là nỗi trăn trở của cán bộ cơ sở. Ông Nguyễn Quang Sáng, nguyên Bí thư Huyện ủy Mường Nhé cũ nhìn nhận: Thực tế để giữ dân, ngoài chủ trương đúng đắn, cần những giải pháp đồng bộ: Hạ tầng thiết yếu, sinh kế lâu dài, dịch vụ xã hội cơ bản. Khi đời sống còn bấp bênh, cái ăn cái mặc chưa đủ, thì hứa hẹn về một tương lai ổn định khó trở thành hiện thực.
Để ổn định người dân, nhiều chương trình, chính sách được triển khai: Hỗ trợ đất ở, làm nhà, đất sản xuất, giống cây trồng, vật nuôi, xây dựng đường, trường, trạm y tế. Chỉ trong 10 năm qua, bộ đội biên phòng cùng các sở, ngành, địa phương đã giúp 885 hộ thoát nghèo; cấp hơn 400.000 cây giống, cây ăn quả và trên 70.000 con giống vật nuôi; tham gia hơn 12.000 ngày công hỗ trợ lao động sản xuất. Đồng thời, mở hàng chục lớp xóa mù chữ cho gần 1.000 học viên; làm, sửa 438km đường thôn bản; hỗ trợ xây mới, sửa chữa trên 2.000 ngôi nhà Đại đoàn kết...
Bằng sự kiên định của cấp ủy, chính quyền và sự đồng thuận của nhân dân, các bản giãn dân đã “bén rễ” nơi biên giới. Từ chỗ “cắm bản để giữ đất”, đến nay, bà con đã coi đây là quê hương mới, là chốn an cư, lập nghiệp lâu dài. Đây là minh chứng sống động cho ý chí kiên cường của đồng bào các dân tộc và sự đồng hành bền bỉ của Đảng, Nhà nước. Dẫu còn nhiều khó khăn, nhưng niềm tin đã được gieo, cuộc sống đã khởi sắc, biên cương ngày càng vững chắc.
Bài 2: Có Đảng - bản vững, dân yên, biên thùy chắc
Bài, ảnh: Văn Tâm
Nguồn Điện Biên Phủ : https://baodienbienphu.vn/tin-bai/xay-dung-dang/dang-dua-dan-ra-bien-dan-cung-dang-giu-dat