Đặng Nhật Minh (Trích hồi ký): Cha mẹ tôi là người Huế

Đặng Nhật Minh (Trích hồi ký): Cha mẹ tôi là người Huế
21 giờ trướcBài gốc
Quê nội tôi ở An Cựu và quê ngoại ở làng Lại Thế, TP Huế. Mẹ tôi đã khóc rất nhiều trước khi về nhà chồng, để rồi không lâu sau trở lại nhà mình để chịu tang cha. Phải chăng vì sự khởi đầu như vậy nên cuộc sống chung của hai người vui ít, buồn nhiều. Chắc chắn cha mẹ tôi đã có những ngày rất hạnh phúc bên nhau, nhưng những ngày ấy rất ngắn ngủi. Sau khi cha tôi quyết định lên đường sang Nhật du học, đi theo tiếng gọi của lý tưởng khoa học, là bắt đầu những chuỗi ngày xa cách, chia ly. Tôi thuộc Chinh phụ ngâm trước khi biết Truyện Kiều là do mẹ tôi - bà hay đọc cho tôi nghe từ nhỏ.
"Cô gái trên sông" là một bộ phim điện ảnh Việt Nam nổi tiếng do NSND Đặng Nhật Minh viết kịch bản và đạo diễn, ra mắt năm 1987
Những năm 40, việc một người phụ nữ trẻ, ôm một nách ba con (con nhỏ nhất mới hơn một tuổi), vừa nuôi con vừa hầu hạ bố mẹ chồng, sống cô đơn ròng rã suốt 7 năm trời là một chuyện hy hữu. Có lẽ chưa ở đâu trên thế giới có nhiều phụ nữ chờ chồng như ở ta. Vợ chờ chồng 10 năm, 20 năm, 30 năm... Mẹ tôi chờ chồng 7 năm, nhưng 7 năm ấy đối với bà là một chuỗi ngày dài đằng đẵng. Còn đối với tôi, 7 năm ấy là cả một miền ký ức vô tận của tuổi thơ...
Ngày ấy, sau khi cha tôi lên đường du học, mẹ tôi cùng ba anh em chúng tôi về sống trong ngôi nhà nội tôi tại An Cựu. Tôi chỉ còn giữ lại trong ký ức hình ảnh ông nội tôi như một ông đồ nho đầu búi tó củ hành. Quanh vùng người ta gọi ông là ông Khóa.
Ông tôi giàu nhất vùng An Cựu. Ông quyết chí làm giàu cốt để có tiền nuôi con ăn học, sau này đỗ đạt thành người. Mà khởi đầu có gì đâu? Chỉ là một sạp hàng trong chợ An Cựu của bà nội tôi. Cơ ngơi chỉ là một cái sạp hàng bán vải. Bây giờ, mỗi lần về thăm nhà, đi qua chợ An Cựu, tôi không khỏi cười thầm khi nghĩ: kể từ thời bà nội tôi cho đến nay, dễ hơn một thế kỷ, gia đình tôi không lúc nào không có một sạp hàng trong chợ đó. Mẹ tôi một dạo cũng từng ngồi bán vải trong đó, và bây giờ, con gái ông anh con bác tôi đang ngồi trong đó – cũng bán vải. Có cảm tưởng như gia đình tôi có duyên nợ nào đó từ kiếp trước với cái chợ này, để đến bây giờ cái biển đường phố mang tên cha tôi cứ suốt ngày đau đáu nhìn sang phía cổng chợ.
Ông nội tôi mất đi, đến lượt bác tôi, bác tôi mất đi, đến lượt anh cả con bác tôi... Một việc mà tôi được chứng kiến từ hồi còn nhỏ, đó là lệ cúng trà vào mỗi buổi sáng và buổi chiều. Từ ngày ông nội rồi bà nội tôi mất, bác Kế tôi, ngày nào cũng như ngày nào, đều đặn đạp xe lên thắp hương cúng trên mộ ông bà tôi rồi mới đến trường Quốc Học làm việc (bác tôi là giám thị lâu năm nhất của trường này).
Từ Vỹ Dạ rẽ phải, đi qua cầu Ông Thượng về làng Lại Thế là đến quê ngoại tôi. Ông ngoại tôi làm Thượng thư dưới triều đình Khải Định. Ông ngoại tôi đã xây chiếc cầu này nên cầu có tên là cầu Ông Thượng. Ông ngoại tôi có bốn bà vợ, mẹ tôi là con bà Ba.
Mỗi lần được về bên ngoại đối với tôi thực sự là những ngày hội. Tôi được về với đồng quê, được ngửi mùi thơm của rơm rạ, được sống trong một không gian khác hẳn khung cảnh phố phường ở An Cựu. Các dì, các cậu tôi nhiều lắm. Ai cũng chiều chuộng, yêu thương tôi. Có một điều tôi không cắt nghĩa nổi: tại sao xuất thân trong một gia đình đại quan lại và phong kiến như vậy mà các dì, các cậu tôi đều tham gia vào các tổ chức bí mật của Việt Minh hoạt động trong nội thành. Cứ mỗi lần có dì hoặc cậu nào bị bắt là mẹ tôi lại đến Cung An Định xin Bà Từ Cung can thiệp với Sở mật thám Pháp để họ tha cho.
Tuổi thơ tôi cứ như vậy trôi đi giữa hai miền nội - ngoại: An Cựu và Lại Thế. Hết bốn năm tiểu học ở Trường An Cựu, tôi vào Trường Khải Định, đã bắt đầu biết ngẩn ngơ nhìn sang tường bên kia Trường Đồng Khánh mỗi khi tan trường.
Vào một buổi tối năm 1950... một người đàn ông đến tìm gặp mẹ tôi tại nhà với vẻ mặt đầy bí ẩn. Tôi nhận ra người đó là bác thợ cạo vẫn ngồi dưới gốc cây đa trước Miễu Đại Càng – nơi tôi thường hay ra cắt tóc. Người đàn ông đó gặp mẹ tôi chưa đầy 5 phút rồi cáo lui. Về sau tôi mới biết rằng đêm đó, người thợ cắt tóc – một cơ sở bí mật trong thành phố – đã chuyển đến tận tay mẹ tôi một bức thư của cha tôi viết từ chiến khu Việt Bắc. Thì ra ông không còn ở Nhật nữa. Ông đã trở về theo kháng chiến và bây giờ đang nóng lòng chờ gặp mẹ tôi cùng ba anh em chúng tôi.
Cơ sở bí mật được giao làm việc đó không ai khác chính là cậu Long – em mẹ tôi. Vào một ngày đã định, mẹ tôi cùng ba anh em lên một chiếc xe kéo để về quê ngoại ăn kỵ. Thực ra không có kỵ giỗ nào cả. Ngay khuya hôm ấy, ba du kích địa phương đến đón bốn mẹ con chúng tôi đi. Tôi và mẹ tôi đi bộ, còn hai em gái tôi có người cõng trên lưng. Tảng sáng, chúng tôi đã đến bên bờ một con suối rộng. Bên kia là chiến khu Dương Hòa, từ đây đến Việt Bắc – chỗ cha tôi ở – còn xa lắm, ba tháng sau mới có cuộc trùng phùng.
Mẹ tôi được trang bị một giấy giới thiệu của Ủy ban Kháng chiến tỉnh Thừa Thiên với nội dung: “Bà Tôn Nữ Thị Cung trên đường đi gặp chồng là bác sĩ Đặng Văn Ngữ, đề nghị các cấp địa phương hết lòng giúp đỡ.” Mẹ tôi giữ nó trong người như lá bùa hộ mệnh. Cứ từng chặng giao liên một, mẹ tôi lại chìa lá bùa đó ra. Địa phương lại cử dân quân dẫn đường và địu hai em gái tôi (một lên 8 và một lên 10) đi tiếp.
Tôi còn nhớ như in giây phút cha mẹ tôi gặp nhau bên bờ suối ở Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, sau 7 năm xa cách. Cha tôi từ trên đồi chạy xuống, còn mẹ tôi thì quay lưng đi, lội dọc theo con suối nhỏ... Bà đã mong đợi bao lâu giây phút này, nhưng khi nó đến thì bà lại không đủ can đảm để đón nhận nó. Bà đã quá mệt mỏi vì đợi chờ, vì lặn lội đường xa, vì đủ mọi gian truân vất vả không thể nào kể xiết trong những ngày xa cách.
Tiếp theo là những ngày hạnh phúc của sum họp, đoàn viên. Cha tôi mải mê với công việc chế tạo ra nước lọc Penicilline để cứu chữa những vết thương cho bộ đội ngoài mặt trận, giảng dạy cho khóa sinh viên 52 của Trường Y khoa kháng chiến. Mẹ tôi vào làm xét nghiệm viên trong phòng bào chế Penicilline của cha tôi.
Cha tôi là người Huế, thành phần tiểu tư sản trí thức. Mẹ tôi là người Huế, thành phần quan lại phong kiến. Cả hai đều đi theo Cách mạng. Khởi đầu là do cha tôi trong những ngày du học ở Nhật tình cờ đọc được lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bèn từ bỏ tất cả công việc nghiên cứu khoa học để về nước tham gia vào sự nghiệp chung của dân tộc.
Đôi khi tôi tự hỏi: không biết những người như cha mẹ tôi đã phải tự kiểm điểm những gì trong những cuộc chỉnh huấn trên Việt Bắc vào năm 1954? Không biết họ có phải ân hận về xuất thân thành phần giai cấp của mình để được coi là thành khẩn? Và điều đó có nhọc nhằn lắm đối với cha mẹ tôi không? Những điều đó tôi hoàn toàn không được biết. Tôi chỉ được nghe kể rằng mẹ tôi chỉnh huấn rất thành khẩn, được biểu dương trong lớp, còn cha tôi thì chỉ im lặng, ít nói. Không lâu sau khi tham dự lớp chỉnh huấn đợt một thì mẹ tôi qua đời.
Tôi đã không có mặt trong giờ phút lâm chung của mẹ tôi. Lúc đó tôi đang học mãi tận Nam Ninh bên Trung Quốc. Sau này, tôi nghe dì tôi kể lại: cha tôi nằm bên xác mẹ tôi suốt một đêm, rồi sáng hôm sau chôn mẹ tôi ngay trên nền nhà, trước khi rời Việt Bắc để về tiếp quản Thủ đô.
Những ngày sau hòa bình lập lại ở miền Bắc, công việc chính của cha tôi là tiêu diệt bệnh sốt rét. Cha tôi lại lặn lội trở về với những khu căn cứ địa cũ như Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Lào Cai... để thực hiện một chương trình chống sốt rét toàn diện và quy mô chưa từng có.
Trong những ngày ấy, cha tôi luôn mang trong lòng nỗi nhớ không nguôi về mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình – xứ Huế. Ông luôn nuôi hy vọng trở về gặp lại bà nội tôi – lúc đó đã cao tuổi lắm rồi – dù chỉ một lần. Nhưng đến ngày đất nước thống nhất, có thể về được thì ông đã không còn. Ông đã mất trước đó 8 năm trong một trận bom B52 ở phía Tây Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Ông cùng đồng nghiệp vào đây để nghiên cứu vắc-xin chống sốt rét cho bộ đội. Ông chưa tìm ra được vắc-xin miễn dịch sốt rét cho họ thì ông đã chia sẻ với họ cái chết. Ông nằm trên Trường Sơn lặng lẽ suốt hai mươi năm, cho đến khi tình cờ một người tiều phu phát hiện được mộ ông như mộ một người lính vô danh.
Người ta đưa di hài ông về Nghĩa trang liệt sĩ xã Phong Mỹ, và mãi năm năm sau, anh em chúng tôi mới biết để đưa cha mình về nghĩa trang họ Đặng trên núi Ngự Bình. Sau 46 năm xa cách, cha mẹ tôi cuối cùng đã về bên nhau.
Năm nào tôi cũng về Huế thăm gia đình. Mỗi lần về, anh chị tôi đều dành cho tôi cả căn gác trên tầng 2 để nghỉ ngơi. Nơi đó trước đây là nơi ở của ông bà nội tôi, rồi đến vợ chồng ông bác - anh cả của cha tôi. Căn gác bây giờ chỉ dành làm nơi thờ cúng. Nằm một mình trong đêm yên tĩnh, tôi có cảm giác như đang nằm giữa những người thân đã khuất. Nhưng họ không ngủ, mà cứ mở mắt chong chong nhìn tôi từ những khung ảnh trên bàn thờ. Trong cái không gian sâu thẳm đó, tôi bỗng nhận ra sự nhiệm mầu của mảnh đất này – xứ Huế... (Đạo diễn Đặng Nhật Minh, tháng 7 - 2002).
Đoàn Hào Vũ
Nguồn VHPT : https://vanhoavaphattrien.vn/dang-nhat-minh-trich-hoi-ky-cha-me-toi-la-nguoi-hue-a29642.html