Dù chị khuyên “đa dạng hóa đầu tư” qua kênh khác hay tham gia một số loại hình bảo hiểm tự nguyện thì em chị không muốn. Nó tương tự một câu chuyện khác với một giáo sư hàng đầu về kinh tế ở Việt Nam, khi ông kể về chuyện mua vàng tích trữ dự phòng về già của em mình.
Qua những câu chuyện đó, tôi nhận ra vàng là khoản tích trữ về già của người làm ăn trong lĩnh vực mà chúng ta gọi là "kinh tế phi chính thức”, ví dụ như bán hàng nhỏ lẻ, sửa chữa nhỏ, giúp việc, mà không đăng ký kinh doanh.
Theo một thông tin từ hội thảo gần đây của World Bank, 70% lực lượng lao động tại Việt Nam làm việc trong khu vực này, nhưng chỉ có 5% trong đó tham gia bảo hiểm xã hội.
Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm xã hội nói chung còn hạn chế, với mục tiêu tới 2030 mới nâng được từ 36% lên 60%. Trong khi đó nhóm lao động trong nền kinh tế phi chính thức này lại còn có tỷ lệ bao phủ bảo hiểm xã hội thấp hơn nhiều, và có đặc thù công việc phân tán, thu nhập không ổn định và đa dạng ngành nghề.
Hệ quả là một số lớn trong họ phải tính toán để tích lũy cho mình khi về già. Mua vàng là một trong những lựa chọn đó.
Chúng ta không có con số thống kê chính xác về vàng trong dân, và càng không có con số thống kê đúng về vàng trong tay lao động phi chính thức. Con số hay nói 400-500 tấn "vàng trong dân" mà thường được một vài chuyên gia hay đại biểu Quốc hội trích dẫn, và quy cho Hội đồng Vàng thế giới nói vậy, thật ra là một con số ước tính và không còn cơ sở phù hợp với thực tiễn hiện nay.
Về vấn đề này, đầu tháng 11 vừa qua, ông Shaokai Fan, Giám đốc khu vực châu Á - Thái Bình Dương (không bao gồm Trung Quốc) kiêm Giám đốc phụ trách Ngân hàng Trung ương toàn cầu tại Hội đồng Vàng thế giới, đã khẳng định rằng ước tính 400-500 tấn vàng đã cũ và hiện không có cơ sở để xác định chính xác lượng vàng mà người dân Việt Nam đang nắm giữ.
Tuy không có con số chính thức, nhưng những câu chuyện đơn lẻ kể trên cho thấy là có một bộ phận trong số đó mua vàng để làm của để dành. Cho dù con số đó có cao hay thấp tới đâu, thì vẫn có một bộ phận đang sử dụng vàng làm của để dành, để phòng ngừa cho những lúc rủi ro của họ, thay cho mạng lưới an sinh xã hội chính thức và đó là thực tế cần ghi nhận.
Nói cách khác, vàng không chỉ là của để dành như một số đại biểu Quốc hội nêu, mà còn là một tấm đệm dự phòng đóng vai trò như một mạng lưới an sinh xã hội thay thế.
Vậy thì đề xuất đánh thuế giao dịch vàng với mức áp thuế thu nhập cá nhân 0,1% trên giá chuyển nhượng vàng miếng mỗi lần đã tính đến điều này hay chưa?
Những luận điểm đánh thuế giao dịch vàng là có lý khi so nó với các công cụ đầu tư khác như cổ phiếu, nhà đất và đề xuất phải công bằng. Những góc nhìn đó đều tập trung vào quan điểm vàng được sử dụng như công cụ đầu cơ, tích trữ của người dư tiền, gọi tiền vào vàng là “tiền chết” hay “vàng chết” trong dân.
Các chuyên gia theo quan điểm này đa số cho rằng hàng trăm hay thậm chí hàng ngàn tấn vàng đã được dân mua xong thì được để yên đó. Nói như những chuyên gia đó, vàng được người dân để dưới "gầm giường", không trở lại hệ thống ngân hàng thương mại, cũng không đi vào kinh doanh hay lưu thông trong nền kinh tế.
Thế nhưng quan điểm này lại quên mất đi rằng có những khoản “tiền chết” đó sẽ là phao cứu sinh sống còn của một bộ phận người dân mua vàng để đó, khi có chuyện sinh tử thì phải dùng đến. Đó là tấm đệm an sinh xã hội cuối cùng của họ trước khi phải đi vay trên thị trường phi chính thức, mà đôi khi là “vay nặng lãi”.
Đó không phải lời của chuyên gia nào, mà là lời tôi nghe từ một người bạn làm cán bộ tín dụng nhiều năm, “bám địa bàn” quận 4 cho biết khi nói chuyện về câu chuyện tín dụng phi chính thức trong dân.
Ở đây chúng ta không nên làm quá vấn đề lên kiểu là vậy đánh thuế vàng là đánh thuế tất cả những người dân đang không được hưởng an sinh xã hội và dùng vàng làm dự phòng. Họ tự nhiên sẽ phải có những cách khác để “tính kế” cho mình.
Nhưng chúng ta cũng không nên phủ nhận rằng sẽ có những người chỉ dựa vào của để dành duy nhất như vàng. Và họ sẽ thường là thuộc nhóm yếu thế của xã hội, ít thông tin và ít khả năng có những lựa chọn khác. Vậy đánh thuế của để dành đại trà sẽ tổn hại những người yếu thế đó nhất.
Với nhiều người khác, một tí thuế thêm lên vàng sẽ chỉ khiến họ cân nhắc bài toán mua vàng hay mua gì khác, nhưng với một số khác, dù ít, thì đó sẽ là tấm lưới an sinh thay thế duy nhất còn lại.
Ở các nước, để xử lý chuyện này thì có một giải pháp là cho phép có một tài khoản tiết kiệm hưu trí miễn thuế thu nhập đến một mức độ nào đó (ví dụ ở Anh đang là tối đa 20.000 bảng Anh nếu mua cổ phiếu và trái phiếu, chứng chỉ quỹ vàng cũng nằm trong đó). Tiền dôi dư tiết kiệm trên mức đó thì phải đi vào các tài khoản đầu tư khác và chịu thuế thu nhập tương ứng tùy sản phẩm và phương án đầu tư.
Ở Việt Nam, chúng ta chưa làm được chuyện này, chưa có một tài khoản tích lũy hưu trí tự nguyện được miễn thuế, trong khi độ bao phủ của an sinh xã hội với một số tầng lớp lao động phi chính thức còn thấp.
Điều đó theo tôi là một trong những nhân tố khiến dân phải mua vàng.
Và nếu người dân phải mua vàng vì lý do dự phòng rủi ro này, thì đánh thuế vàng không chỉ là đánh thuế của để dành, mà còn là đánh thuế tấm đệm an sinh xã hội cuối cùng, của dự phòng sinh tử của một bộ phận người dân, mà có thể còn là nhóm yếu thế.
Vì vậy, khi ra một chính sách, không thể chỉ nhìn vào túi tiền của người thừa tiền, mà còn phải nghĩ đến số phận của một nhóm yếu thế có thể bị ảnh hưởng nặng hơn nhiều dù số tiền phải nộp của nhóm này có khi không đáng kể so với nhóm thừa tiền.
Nói vậy không phải là ta không thể nghĩ tới điều tiết thị trường vàng bằng thuế. Nhưng chúng ta phải có một phương án đánh thuế hợp tình, hợp lý và cân nhắc tất cả các ảnh hưởng. Khi công cụ hay hạ tầng chính sách chưa đủ, thì hãy đi tạo ra nó, ví dụ tài khoản tiết kiệm miễn thuế, nâng bao phủ an sinh xã hội lên, rồi hãy tính tới đánh thuế vàng.
TS. Hồ Quốc Tuấn