Cải thiện tình trạng đau lưng, đi lại khó khăn
Bà L., 60 tuổi, nhập viện vì đau lưng lan xuống chân phải tăng dần, đi lại rất khó khăn. Cơn đau đã kéo dài khoảng 3 năm, lúc âm ỉ, lúc bùng lên dữ dội, ảnh hưởng sinh hoạt hàng ngày. Bà từng đi khám nhiều nơi, được tư vấn phẫu thuật cố định cột sống, bắt ốc vít.
Tuy nhiên, khi hỏi về hiệu quả, đa phần chỉ cho biết “khoảng 50–50”, lại phải can thiệp lớn nên bà rất lo lắng, cố gắng trì hoãn. Đợt này, đau tê lan chân phải khiến bà gần như không đi được, phải nhờ người dìu, gia đình quyết định đưa bà vào TP HCM.
Bà nhập viện Hoàn Mỹ Sài Gòn điều trị, sau 3 ngày truyền dịch, chích thuốc, cơn đau có giảm nhưng ngồi lâu hay đi lại vẫn đau nhiều, chân phải còn tê, khiến bà luôn trong trạng thái bất an. Bà được BS.CKII Nguyễn Quốc Hùng thăm khám chi tiết: hỏi kỹ diễn tiến đau, cách đau, tư thế đau – giảm đau, kiểm tra vận động, cảm giác, các nghiệm pháp thần kinh, các xét nghiệm hình ảnh, X-quang, MRI hiện đại.
Sau phong bế thần kinh người bệnh đi lại được - Ảnh BVCC
Bác sĩ Quốc Hùng nhận định, bệnh nhân chỉ bị chèn ép rễ thần kinh cột sống thắt lưng L5 bên phải là chính chứ không phải “nguyên cột sống lưng” như các chẩn đoán trước đó.
Sau khi giải thích rõ nguyên nhân đau và các lựa chọn điều trị, BS.CKII Nguyễn Quốc Hùng chỉ định tiêm phong bế rễ thần kinh L5 bên phải dưới hướng dẫn máy C-arm.
Trong phòng thủ thuật, dưới sự hướng dẫn của máy C-arm, mũi kim được đưa chính xác vào vùng quanh rễ L5 phải. Thuốc được bơm với liều lượng phù hợp, giúp giảm viêm – giảm phù nề quanh rễ thần kinh, đồng thời giảm đau khu trú tại chỗ chèn ép. Toàn bộ thủ thuật chỉ diễn ra chưa đầy 10 phút.
Ngay sau khi tiêm, bệnh nhân cảm nhận lưng nhẹ hẳn, chân phải bớt đau – tê rõ rệt, có thể ngồi dậy, tập đi lại dễ dàng hơn. Những ngày sau đó, bệnh nhân gần như không còn đau tê, ngủ được, ăn ngon hơn, tâm lý không còn lo sợ căn bệnh đau cột sống hành hạ.
Bà T xúc động chia sẻ: “Lúc mới vô bệnh viện, mỗi bước tôi đi là mỗi lần cầu nguyện. Giờ giống như phép màu thành sự thật. Tôi rất cảm ơn bác sĩ Hùng và các bạn nhân viên y tế đã chăm sóc, điều trị cho tôi suốt những ngày qua”.
Giải quyết triệu chứng đau không phải là phương pháp lâu dài
Các chuyên gia cho biết, phong bế thần kinh là thủ thuật giúp giải quyết các triệu chứng đau ở nhiều nơi có nguồn gốc liên quan đến các rễ thần kinh. Bệnh lý thường được dùng phương pháp này nhất là các trường hợp đau lưng, đau cổ kéo dài do nguyên nhân thoái hóa cột sống, thậm chí cả với các bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối đang phải chịu đựng những cơn đau dữ dội hàng ngày.
Tác dụng của thủ thuật này là ngăn chặn sự truyền dẫn tín hiệu đau gửi về não bằng cách gây tê tại chỗ cho các dây thần kinh. Hoạt chất sử dụng cho quá trình gây tê là ancol hay phenol. Ngoài ra, bác sĩ có thể sử dụng tương tự thủ thuật này với các chất steroid để làm giảm hiện tượng viêm xung quanh các rễ thần kinh, do đó nó cũng làm giảm đáng kể tình trạng đau trong một thời gian dài.
Phong bế thần kinh chỉ có tác dụng tạm thời và nó không phải lại phương pháp đem lại hiệu quả lâu dài. Tuy nhiên, sự đáp ứng ở mỗi bệnh nhân là khác nhau. Cho nên, thủ thuật phong bế thần kinh thường được tiến hành từng đợt và sau đó ngừng lại để đánh giá hiệu quả. Một số bệnh nhân có thể cảm thấy tốt hơn sau một đợt tiêm, bên cạnh đó số khác lại nhận thấy hoàn toàn không có sự cải thiện nào cả.
Trong trường hợp phong bế thần kinh không đem lại hiệu quả thì các bác sĩ chuyên khoa sẽ lựa chọn một phương pháp điều trị khác. Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng phong bế thần kinh là phương pháp giúp giảm đau cho người bệnh nhưng nó không phải là phương pháp giúp kéo dài cuộc sống cũng như cải thiện tiên lượng của bệnh nhân.
Phương pháp phong bế thần kinh sẽ được bác sĩ chỉ định giúp chẩn đoán, tiên lượng và điều trị các triệu chứng đau:
Xác định nguyên nhân gây đau đối với các nhánh thần kinh có vùng phân bố khu trú đặc hiệu cũng như các cơ chế liên quan đến sự phát sinh đau.
Chẩn đoán phân biệt về vị trí và nguyên nhân gây ra cơn đau, chẳng hạn như bệnh nhân thoát vị nhiều tầng mà không rõ nguyên nhân nào gây ra triệu chứng.
Tiên lượng kết quả từ thủ thuật hủy thần kinh.
Giảm đau sau mổ, sau chấn thương.
Đau rễ thần kinh vùng thắt lưng hoặc đau khớp vùng chậu.
Bệnh nhân đau cột sống không phẫu thuật.
Vô cảm trong một số thủ thuật như phẫu thuật ngón tay.
Chống chỉ định phong bế thần kinh
Chống chỉ định tuyệt đối: nhiễm khuẩn cục bộ tại vị trí tiêm, không tiến hành vô khuẩn tại chỗ trên da, vị trí tiêm có tồn tại khối u, có tiền sử dị ứng với thuốc tê cục bộ, giảm dung lượng máu nặng, thiếu hụt các yếu tố đông máu toàn bộ, nhiễm khuẩn huyết, tăng áp lực nội sọ (tủy, đuôi ngựa và ngoài máng cứng), sử dụng corticoid có bảo quản chống phân hủy bị chống chỉ định trong thủ thuật tiêm ngoài màng cứng và dưới nhện bởi vì nó có thể gây ra cơn tai biến ngập máu và phân hủy hệ thần kinh trung ương lâu dài.
Chống chỉ định tương đối: Các bệnh lý toàn thân (phong bế thần kinh có thể gây ra cho bệnh nhân những tình trạng nguy hiểm như: hẹp động mạch chủ, bệnh phổi nặng, thiếu máu tế bào hình liềm); các bệnh lý thần kinh như bệnh xơ cứng rải rác hoặc bệnh cơ cứng cột bên teo cơ.
Biến chứng thường gặp trong thủ thuật phong bế thần kinh có thể là sử dụng quá liều thuốc tê, hay phản ứng nhạy cảm với thuốc tê, hay tiêm thuốc vào mạch máu. Để hạn chế và tránh các biến chứng thì bác sĩ cần phải khai thác tiền sử bệnh của bệnh nhân thật cẩn thận và chi tiết, rõ ràng.
Một số biến chứng phổ biến và các xử trí:
Ngất thoáng qua, buồn nôn và nôn, chân tay mỏi có cảm giác giống kiến bò... các biến chứng nhẹ này thường tự hết.
Hôn mê: Nếu bệnh nhân hôn mê mà vẫn duy trì hô hấp tuần hoàn thì cho bệnh nhân thở oxy, truyền dịch và có thể hồi sức nếu cần. Nhưng nếu bệnh nhân hôn mê và ngừng thở thì phải bóp bóng oxy, đặt nội khí quản, và hô hấp nhân tạo nếu cần.
Co thắt phế quản hay có cảm giác ngứa: Biến chứng này có thể hết hoặc nếu không thì sẽ được điều trị bằng cách tiêm 0.5mg adrenalin dưới da hoặc sử dụng thuốc kháng histamin 1-2mg/kg.
Hạ huyết áp và mạch chậm: Nếu bệnh nhân gặp phải tình huống này, bác sĩ cần truyền bù khối lượng tuần hoàn bằng các dung dịch tinh thể đẳng trương, thở oxy, tiêm tĩnh mạch atropin 0.5mg (nếu mạch chậm). Sau 5 phút không cải thiện tình hình thì nhỏ giọt bắt đầu (dung dịch được pha bao gồm 1mg adrenalin, 500ml dung dịch NaCl 0.9%) với 20 giọt/phút.
Có thể tăng thêm 10 giọt/phút sau 5 phút không thấy có hiệu quả. Trong trường hợp bệnh nhân ngừng tim thì phải hồi sức ngay, nếu bệnh nhân bị co giật cần theo dõi cẩn thận (có thể điều trị bằng diazepam 5mg tiêm tĩnh mạch hoặc thiopental tĩnh mạch liều nhỏ 50mg) kết hợp với thở oxy.
Thúy Nga