Dấu son ngành Giáo dục 80 năm

Dấu son ngành Giáo dục 80 năm
7 giờ trướcBài gốc
Qua mỗi giai đoạn lịch sử, ngành Giáo dục luôn khẳng định vai trò then chốt trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, từ phong trào “diệt giặc dốt” trong kháng chiến, cải cách toàn diện sau hòa bình lập lại, đến đổi mới căn bản trong thời kỳ hội nhập và chuyển đổi số.
Với những nỗ lực không ngừng, giáo dục Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu lịch sử, góp phần quan trọng vào sự nghiệp nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài - nền tảng cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Giai đoạn 1945 - 1954 là một thời kỳ đặc biệt và đầy thử thách trong lịch sử dân tộc. Chính phủ coi xóa nạn mù chữ, chấn hưng giáo dục là nhiệm vụ cấp bách, phục vụ kháng chiến, kiến quốc.
Bác Hồ thăm một lớp học của phong trào Bình dân học vụ. Ảnh tư liệu.
Ngay sau Cách mạng, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu là "diệt giặc dốt", được triển khai mạnh mẽ qua phong trào Bình dân học vụ, biến việc học chữ Quốc ngữ thành nghĩa vụ bắt buộc và miễn phí cho toàn dân.
Một nền giáo dục hoàn toàn mới được định hình, dựa trên ba nguyên tắc cốt lõi: Dân tộc hóa (lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ chính), khoa học hóa (chống lối học giáo điều), và đại chúng hóa (phục vụ đông đảo nhân dân). Phong trào Bình dân học vụ xóa nạn mù chữ rộng khắp, giáo dục chuyển hướng theo phương châm “Học để kháng chiến”.
Đỉnh cao của sự chuyển hướng này là cuộc Cải cách giáo dục toàn diện năm 1950, nhằm kiến thiết một hệ thống giáo dục mới, thống nhất và liên thông, phục vụ trực tiếp cho cuộc chiến và công cuộc kiến quốc tương lai. Cuộc cải cách đã thay thế hệ thống phổ thông 12 năm bằng hệ thống 9 năm gọn nhẹ hơn, đồng thời xây dựng lại toàn bộ chương trình và sách giáo khoa theo hướng thiết thực, khoa học và đậm tinh thần dân tộc. Phong trào Bình dân học vụ xóa nạn mù chữ rộng khắp, giáo dục chuyển hướng theo phương châm “Học để kháng chiến”.
Giai đoạn 1954 - 1975, miền Bắc đã cơ bản xóa nạn mù chữ - đây là thành tựu nổi bật nhất. Đến năm 1958 có 93,4% nhân dân độ tuổi 12 - 50 ở đồng bằng và trung du biết đọc, biết viết. Đây là cơ sở cho việc nâng cao dân trí, phát triển văn hóa, kinh tế của đất nước.
Lễ khai giảng năm học 1972-1973. Ảnh tư liệu
Cuộc cải cách giáo dục năm 1956 đã xây dựng một hệ thống giáo dục quốc dân hoàn chỉnh, từ mầm non đến đại học, mở rộng mạng lưới đến tận các xã. Hàng vạn cán bộ, trí thức, kỹ sư, bác sĩ, giáo viên được đào tạo, trở thành lực lượng chủ chốt xây dựng miền Bắc và chi viện cho miền Nam. Ngay cả trong chiến tranh, giáo dục miền Bắc vẫn duy trì ổn định, bảo đảm “học không gián đoạn”.
Giai đoạn 1975 - 1986 là một chặng đường lịch sử đặc biệt, ghi dấu những nỗ lực phi thường của ngành Giáo dục Việt Nam.
Một trong những thành tựu quan trọng của giáo dục giai đoạn này là thống nhất thành công hệ thống giáo dục quốc dân; giữ vững và mở rộng quy mô giáo dục; thành công trong xóa mù chữ và nâng cao dân trí.
Đây là một chương lịch sử hào hùng nhưng cũng đầy thử thách của giáo dục Việt Nam. Ngành đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử là thống nhất hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần củng cố sự đoàn kết dân tộc. Tuy nhiên, những khó khăn về chất lượng và nguồn lực đòi hỏi một công cuộc đổi mới toàn diện hơn, không chỉ trong giáo dục mà cả về kinh tế - xã hội, mở đường cho giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước.
Giai đoạn 1986-2000 là chặng đường lịch sử đầy biến động, chứng kiến cuộc chuyển mình mạnh mẽ của đất nước và của giáo dục Việt Nam.
Hệ thống giáo dục Việt Nam đạt được những thành tựu mang tính nền tảng như: Khung pháp lý và thể chế giáo dục từng bước được hoàn thiện; hệ thống giáo dục quốc dân được tái cấu trúc và phát triển đồng bộ; hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ vào năm 2000, triển khai phổ cập giáo dục trung học cơ sở; cơ sở vật chất và môi trường giáo dục từng bước được hiện đại hóa; đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng; thành công trong xã hội hóa giáo dục và đa dạng hóa loại hình và hình thức giáo dục; bước đầu đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục…
Cùng với công cuộc đổi mới đất nước, ngành Giáo dục đã nỗ lực vượt qua khủng hoảng, hồi phục và phát triển, đạt được những thành tựu lớn.
Dù còn có những hạn chế, khó khăn, nhưng những thành tựu đạt được trong việc mở rộng quy mô, hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh xã hội hóa, đa dạng hóa loại hình, hội nhập quốc tế đã tạo ra tiền đề vững chắc để ngành giáo dục Việt Nam tiếp tục thực hiện những cuộc đổi mới toàn diện hơn trong thế kỷ XXI.
Trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2025, giáo dục Việt Nam không ngừng đổi mới, chủ động, linh hoạt thực hiện nhiều bước tiến đột phá, kiến tạo một nền giáo dục toàn diện, sẵn sàng thích ứng với sự phát triển của thời đại.
Mạng lưới giáo dục ngày càng được mở rộng. Ảnh: Lê Nguyễn
Giai đoạn đầu những năm 2000, giáo dục tập trung vào việc mở rộng quy mô; từ năm 2011 đến năm 2020, ngành chuyển hướng sang đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và hội nhập quốc tế. Sau năm 2020, trước những biến động phức tạp, ngành đã có những giải pháp đột phá để duy trì các hoạt động giáo dục, khẳng định vai trò then chốt trong sự phát triển của đất nước.
Vượt qua những khó khăn, nền giáo dục Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng tự hào, mang tính đột phá và thể hiện tầm nhìn chiến lược của ngành giáo dục, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài.
Mạng lưới giáo dục từ mầm non đến đại học được mở rộng và hoàn thiện, cơ sở vật chất ngày càng hiện đại; số trường đạt chuẩn quốc gia và cơ sở giáo dục ngoài công lập tăng nhanh, tạo sự đa dạng về loại hình. Cả nước hoàn thành phổ cập giáo dục, trong đó tiểu học và trung học cơ sở được duy trì vững chắc, nhiều địa phương phổ cập trung học phổ thông, và đặc biệt năm 2017, Việt Nam công nhận hoàn thành phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi với gần 99% trẻ đi học.
Quy mô giáo dục và đào tạo phát triển mạnh với tỷ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi tăng, tình trạng bỏ học giảm rõ rệt. Đến năm 2020 khoảng 70% lao động qua đào tạo nghề được cấp chứng chỉ; số sinh viên/1 vạn dân tăng từ 117 (năm 2000) lên hơn 200 (năm 2010) và tiếp tục tăng sau đó.
Cả nước cũng vừa đã hoàn thành chu kỳ đầu tiên trong triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018; giáo dục nghề nghiệp gắn chặt hơn với nhu cầu thị trường; bậc đại học mở rộng tự chủ, kiểm định chất lượng và có nhiều chương trình đạt chuẩn khu vực, quốc tế.
Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2025 là kỳ thi đầu tiên theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Ảnh: Lê Nguyễn
Công bằng giáo dục được cải thiện nhờ chính sách hỗ trợ học sinh nghèo, vùng khó khăn, dân tộc thiểu số, giúp gia tăng tỷ lệ nhập học của nhóm yếu thế.
Hội nhập quốc tế và chuyển đổi số trở thành động lực mới. Nhiều cơ sở đào tạo liên kết quốc tế, trong khi chuyển đổi số sau đại dịch COVID-19 đã thúc đẩy xây dựng kho học liệu số, dạy học trực tuyến và quản trị hiện đại, đặt nền móng cho hệ sinh thái giáo dục số của Việt Nam.
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhìn lại chặng đường 2000-2025, giáo dục Việt Nam đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ với nhiều thành tựu quan trọng, nổi bật là việc hoàn thành phổ cập và đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo. Bước vào giai đoạn mới, với bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, việc tiếp tục đổi mới trở nên cấp thiết.
Vì vậy, chuyển đổi số toàn diện, tăng cường tự chủ và thắt chặt liên kết giữa nhà trường với xã hội chính là những nhiệm vụ chiến lược để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.
Thống Nhất
Nguồn Hà Nội Mới : https://hanoimoi.vn/dau-son-nganh-giao-duc-80-nam-713922.html