Phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là nhiệm vụ chiến lược, được Đảng và Nhà nước xác định xuyên suốt trong nhiều nhiệm kỳ. Đây là khu vực có vị trí đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh – quốc phòng, đồng thời cũng là vùng còn nhiều khó khăn, chịu tác động mạnh của thiên tai, biến đổi khí hậu và hạn chế lớn về hạ tầng, dịch vụ công.
Nhà nước hỗ trợ nhiều chính sách để đồng bào dân tộc thiểu số phát triển
Với quyết tâm không để ai bị bỏ lại phía sau, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương lớn nhằm phát triển toàn diện khu vực này, trong đó Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021–2030, giai đoạn 1 từ 2021–2025, là bước đi quan trọng, tạo đột phá cho phát triển bền vững.
Trên cơ sở Nghị quyết số 88/2019/QH14 phê duyệt Đề án Tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi và Nghị quyết 120/2020/QH14, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021, phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia với 10 dự án thành phần trọng tâm. Chương trình đặt mục tiêu nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào; phát triển hạ tầng thiết yếu; hỗ trợ sinh kế và sản xuất; bảo tồn văn hóa truyền thống; củng cố hệ thống chính trị cơ sở; giảm nghèo đa chiều; và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền.
Giảm nghèo 3,4%/năm nhờ chương trình vùng dân tộc thiểu số.
Tổng vốn thực hiện chương trình giai đoạn 2021–2025 ước đạt 137.665 tỷ đồng, bao gồm vốn ngân sách trung ương, địa phương và các nguồn huy động hợp pháp khác. Đây là một trong những gói đầu tư lớn nhất từ trước đến nay dành riêng cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Trong giai đoạn 2021–2023, dù triển khai trong bối cảnh dịch Covid-19, áp lực ngân sách, giá cả biến động và nhiều khó khăn khách quan, các bộ, ngành và địa phương vẫn nỗ lực thực hiện chương trình tại 51 tỉnh có đồng bào dân tộc thiểu số, tập trung vào các nhóm dự án ưu tiên.Hạ tầng thiết yếu được đầu tư mạnh mẽ, trong ba năm đầu, các địa phương đã triển khai hơn 5.000 dự án, công trình hạ tầng, tập trung vào: Đường giao thông nông thôn, cầu, ngầm tràn; Trường học, nhà bán trú cho học sinh; Trạm y tế, cơ sở khám chữa bệnh tuyến xã...Nhiều công trình đã hoàn thành, đưa vào sử dụng, góp phần cải thiện rõ rệt điều kiện đi lại, tiếp cận dịch vụ công và đời sống dân sinh.
Chương trình đã triển khai 445 mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, thiết bị sản xuất, tập huấn kỹ thuật và kết nối thị trường cho người dân.Bên cạnh đó, 249 mô hình khởi nghiệp và phát triển kinh tế cộng đồng được hình thành, giúp đồng bào chủ động hơn trong phát triển kinh tế hộ và kinh tế hợp tác, từng bước xây dựng vùng sản xuất hàng hóa đặc trưng theo tiềm năng của từng địa phương.
Theo báo cáo tổng hợp, chương trình đã: Hỗ trợ 489 hộ có đất ở, hỗ trợ 14.760 hộ có đất sản xuất,
Chương trình đã đầu tư nâng cấp hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú; cải thiện điều kiện học tập, sinh hoạt cho học sinh; giảm tỉ lệ học sinh bỏ học. Trong lĩnh vực y tế, nhiều trạm y tế tuyến xã được xây mới và nâng cấp, giúp tăng khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản và giảm tình trạng di chuyển xa chữa bệnh.
Công tác bình đẳng giới, chăm sóc trẻ em, hỗ trợ phụ nữ, người yếu thế được triển khai mạnh, cùng với các hoạt động tuyên truyền xóa bỏ hủ tục và nâng cao nhận thức pháp luật.
Mặt khác, chường trình giúp bảo tồn văn hóa và phát triển du lịch cộng đồng. Hàng trăm lễ hội, nghi lễ truyền thống, làng nghề đặc trưng được phục hồi; nhiều mô hình du lịch cộng đồng được hỗ trợ phát triển, tạo thêm nguồn thu nhập cho người dân đồng thời bảo tồn bản sắc của từng dân tộc.Nhờ triển khai đồng bộ các dự án, thu nhập và đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số đã có sự cải thiện rõ rệt: Tỷ lệ hộ nghèo giảm khoảng 3,4%/năm, vượt mục tiêu đề ra; Thu nhập bình quân của đồng bào đạt khoảng 43,4 triệu đồng/người/năm, tăng hơn 3 lần so với năm 2020; Điều kiện hạ tầng, giao thông, điện – nước, y tế, giáo dục được nâng lên đáng kể.
Những con số này cho thấy chương trình không chỉ giải quyết nhu cầu trước mắt mà còn từng bước thay đổi căn bản điều kiện kinh tế – xã hội ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Tăng cường tuyên truyền và giám sát
Công tác tuyên truyền đóng vai trò then chốt, giúp người dân hiểu rõ mục tiêu, ý nghĩa và quyền lợi khi tham gia chương trình. Các địa phương đã đẩy mạnh truyền thông qua hội nghị, hệ thống truyền thanh cơ sở, tài liệu song ngữ, báo chí và mạng xã hội.
Bên cạnh đó, Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành và địa phương: Tăng cường kiểm tra, giám sát; Bảo đảm công khai – minh bạch; Kiên quyết phòng ngừa tiêu cực, lợi dụng chính sách; Phát huy vai trò giám sát của cộng đồng.
Người dân cũng được khuyến khích nâng cao tinh thần tự lực, chủ động tham gia sản xuất, bảo vệ môi trường và giữ gìn bản sắc văn hóa.
Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021–2025 là chủ trương lớn, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với một khu vực có ý nghĩa chiến lược. Những kết quả đạt được trong giai đoạn 2021–2023, đặc biệt là hơn 5.000 công trình hạ tầng, hàng chục nghìn hộ được hỗ trợ đất ở – đất sản xuất, hàng trăm mô hình sinh kế, cùng mức giảm nghèo 3,4%/năm, cho thấy chương trình đang đi đúng hướng và mang lại tác động thực chất.
Việc tiếp tục tuyên truyền đúng, đủ và hiệu quả sẽ góp phần củng cố niềm tin của người dân, huy động sức mạnh cộng đồng, bảo đảm chương trình được triển khai công khai, minh bạch; từ đó tạo động lực quan trọng để vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi phát triển nhanh, bền vững, góp phần xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Như Quỳnh