ĐẨY NHANH ĐẦU TƯ CÔNG: QUYẾT TÂM CHÍNH TRỊ VÀ GIẢI PHÁP THỰC THI
Tại webinar “Tăng tốc đầu tư công: Hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng 8,5% của TP.HCM” do Tạp chí Doanh Nhân Sài Gòn và Viện Sáng kiến Việt Nam tổ chức sáng 20/9, các chuyên gia đã “mổ xẻ” thẳng thắn thực trạng, cảnh báo hệ lụy của việc chạy theo thành tích ngắn hạn, đồng thời đưa ra nhiều ý kiến, cách làm để đầu tư công thực sự trở thành nền tảng bền vững, dài hạn.
Nhiều “nút thắt” ngăn dòng chảy đầu tư công
Nhiều “nút thắt” ngăn dòng chảy đầu tư công
Ông Trần Văn Bích - Trưởng phòng Nghiên cứu phát triển Kinh tế, Viện Nghiên cứu Phát triển TP.HCM (HIDS) phân tích bốn điểm nghẽn lớn được Thành phố nhận định rõ ràng.
Điểm nghẽn thứ nhất liên quan đến việc cập nhật, điều chỉnh quy định trong lĩnh vực đầu tư công, tức vấn đề thể chế pháp luật. Ví dụ, việc chậm triển khai nghị định hướng dẫn Luật Đầu tư công mới đã ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện. Cụ thể, ngày 1/1/2025, Luật Đầu tư công số 58/2024 có hiệu lực, nhưng đến tháng 4/2025, Chính phủ mới ban hành Nghị định 85/2025 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật số 58. Việc này tác động đến tiến độ giải ngân các dự án đầu tư công trên địa bàn TP.HCM.
Điểm nghẽn thứ hai liên quan đến việc sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và chuyển sang mô hình chính quyền địa phương hai cấp. TP.HCM, Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu đã có nhiều nỗ lực, nhưng việc hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan đến pháp nhân chủ đầu tư, công tác tiếp nhận kế hoạch đầu tư công và giải ngân vẫn cần thời gian. Điều này dẫn đến chậm giải ngân. Ngoài ra, ở cấp xã, UBND được giao làm chủ đầu tư một số công trình nhưng không có ban quản lý dự án xây dựng, cũng ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân.
Bí thư Thành ủy Trần Lưu Quang, Chủ tịch HĐND Võ Văn Minh và Chủ tịch UBND Nguyễn Văn Được chủ trì buổi họp thúc đẩy giải ngân đầu tư công chiều ngày 16/9 vừa qua
Hiện nay có tới 7/10 ban quản lý dự án vẫn chậm giải ngân so với bình quân của TP.HCM, trong đó có nhiều ban thuộc các tỉnh Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu cũ. Cụ thể, Ban quản lý dự án chuyên ngành giao thông và dân dụng Bà Rịa - Vũng Tàu mới giải ngân được 30,81%; Ban quản lý đầu tư xây dựng tỉnh Bình Dương đạt khoảng 24%; Ban quản lý giao thông khu vực và chuyên ngành nông thôn -nông nghiệp Bà Rịa - Vũng Tàu chỉ đạt 21,73%; Ban quản lý dự án xây dựng công trình giao thông Bình Dương dừng ở mức 14,9% và thấp nhất là Ban quản lý dự án chuyên ngành nước thải Bình Dương với 7,9%. Những con số này cho thấy, không chỉ TP.HCM mà cả các địa phương mới sáp nhập vẫn còn nhiều ban quản lý dự án có tiến độ giải ngân rất thấp so với chỉ tiêu đề ra.
Điểm nghẽn thứ ba liên quan đến công tác lập kế hoạch giải ngân vốn đầu tư công năm 2025 sau sắp xếp. Đến nay, vẫn còn 88/211 cơ quan, đơn vị chưa lập kế hoạch giải ngân gửi về Sở Tài chính, ảnh hưởng đến tiến độ chung. Chưa kể, tiến độ giải ngân trong các quý đầu năm thường chậm vì chưa có sự chuẩn bị tốt cho năm sau. Đáng lẽ, muốn giải ngân hiệu quả trong năm 2026, ngay từ năm 2025 phải hoàn tất toàn bộ quy trình, thủ tục để khi vốn được bố trí có thể triển khai ngay trong quý I, quý II. Tuy nhiên, thực tế vẫn phổ biến tình trạng “chờ vốn mới làm thủ tục”, trong khi thủ tục vốn mất rất nhiều thời gian.
Điểm nghẽn thứ tư là công tác tổ chức thực hiện dự án. Một số khó khăn vướng mắc gồm: Các địa phương và trung tâm phát triển quỹ đất chậm bàn giao mặt bằng thi công; công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng chưa được thực hiện quyết liệt; nhiều dự án di dời hạ tầng kỹ thuật điện chưa được xử lý; việc cung ứng vật tư, nguyên liệu cho các dự án lớn gặp áp lực.
Hiện cả nước và TP.HCM đang triển khai nhiều dự án quy mô lớn như Vành đai 3, Vành đai 4, cao tốc Thủ Dầu Một - Chơn Thành, cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu, các tuyến metro, dẫn đến nhu cầu rất lớn về cát, đá, đất. Tuy nhiên, thống kê cho thấy TP.HCM còn thiếu 292.000 m3 cát xây dựng, khoảng 7 triệu m3 cát đắp, 4,7 triệu m3 đá xây dựng và 3,6 triệu m3 đất. Thiếu hụt nguyên vật liệu này ảnh hưởng lớn đến tiến độ giải ngân.
Việc cung ứng vật tư, nguyên liệu cho các dự án lớn gặp áp lực
Nút thắt lớn nhất vẫn là thể chế
PGS-TS Trần Đình Thiên - Nguyên Viện trưởng Viện kinh tế Việt Nam cho rằng, vấn đề hiện nằm ở thể chế trung ương. Từ giải tỏa, đền bù đến các quy định của Luật Đất đai, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư công… đều đang chồng chéo, khiến quá trình triển khai dự án bị kéo dài. Chính vì vậy, cần nhìn nhận sự chậm trễ của TP.HCM là khách quan, bắt nguồn từ thể chế chung, chứ không đơn thuần là thiếu nỗ lực hay yếu kém chủ quan của chính quyền thành phố.
“
“Cái gì của thành phố thì hãy để thành phố quyết,
nếu không sẽ mãi trong tình trạng vừa “đạp ga” vừa “đạp phanh”. Nếu không tháo gỡ nút thắt thể chế, nếu không trao quyền thực chất cho một siêu đô thị như TP.HCM - nơi có quy mô và tính chất phát triển khác biệt thì mọi nỗ lực tăng tốc giải ngân chỉ là tình thế”.
PGS-TS. Trần Đình Thiên
Ông Trần Văn Bích cũng cho rằng, dù trong thời gian qua TP.HCM đã được trao nhiều cơ chế đặc thù nhưng tăng trưởng kinh tế vẫn chưa có sự bứt phá so với giai đoạn trước, trong khi nhiều văn bản triển khai của Nghị quyết 98 vẫn đang dừng ở khâu xây dựng, chưa đi vào thực tiễn. Sau hai năm triển khai, thành phố đã phải đề xuất sửa đổi một số nội dung để tăng tính vượt trội hơn.
Một điểm khác là cơ chế quản trị hai cấp đang áp dụng sau khi mở rộng địa giới hành chính. Dù sau vài tháng vận hành, bộ máy cấp xã đã “trơn tru hơn”, nhưng vẫn lúng túng về thẩm quyền, khiến nhiều thủ tục bị ngáng lại. Chính phủ đã phải lập “tổ công tác đặc nhiệm” xuống tận xã, phường để tháo gỡ. Nhưng cách xử lý mang tính “cứu hỏa” này chỉ phản ánh một thực tế: Phân cấp vẫn chưa rõ ràng.
TS. Đỗ Thiên Anh Tuấn - Giảng viên Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright bổ sung: “Mấu chốt vấn đề chính là “tự quyết - tự chịu trách nhiệm”, gắn liền với việc tăng cường phân cấp, phân quyền cho địa phương”.
“
Sự phân hóa về lợi thế cạnh tranh giữa các địa phương đã rất rõ. Trong khi đó, Trung ương vẫn áp dụng một chính sách chung cho 63 tỉnh, thành, khiến cả địa phương động lực lẫn vùng khó khăn đều bị kìm hãm...
Ông Đỗ Thiên Anh Tuấn
Nhìn chung, gốc rễ của mọi ách tắc vẫn là sự thiếu mạnh dạn trong trao quyền. Chính quyền địa phương chưa thật sự được quyết định về nguồn lực, về cán bộ, về thiết kế thể chế. Một số cơ chế như “tự quyết, tự làm, tự chịu trách nhiệm”, năng động sáng tạo dám nghĩ dám làm, nghe thì rất hay nhưng thực tế chưa có quy định cụ thể, rất khó thực hiện. Trong khi đó, cơ chế hiện hành lại tạo ra nhiều “vùng xám”, rủi ro lớn, khiến cán bộ e dè; cơ chế xin cho, cách đánh giá cán bộ thiên về kỷ luật, trách nhiệm vẫn còn in sâu.
Hưng Khánh