Trong bài trả lời phỏng vấn Báo Thế giới và Việt Nam, ĐBQH Bùi Hoài Sơn cho rằng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh vai trò trung tâm của cải cách thể chế, pháp luật trong sự phát triển của đất nước, đồng thời chỉ rõ tầm quan trọng đặc biệt của văn hóa như một động lực và nền tảng để quá trình cải cách này diễn ra hiệu quả và bền vững. Điều này cho thấy rằng, văn hóa không chỉ là lĩnh vực riêng biệt mà còn là một yếu tố then chốt trong việc hình thành, điều chỉnh và hoàn thiện thể chế quốc gia.
Văn hóa, hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm hệ giá trị, chuẩn mực đạo đức, truyền thống, lối sống và tư duy của một dân tộc. Đây chính là nền tảng tinh thần của xã hội, nơi sản sinh và nuôi dưỡng những tư tưởng cải cách, khát vọng đổi mới và ý chí vươn lên. Không có một nền văn hóa tiến bộ, lành mạnh thì không thể có một quá trình cải cách thể chế thực chất và nhân văn.
Một thể chế tốt không thể tách rời khỏi những giá trị văn hóa tích cực. Văn hóa góp phần hình thành nên tư duy lập pháp có chiều sâu, gắn bó với thực tiễn và giàu tính nhân văn. Những quy định pháp luật không chỉ nhằm điều chỉnh hành vi, mà còn phản ánh chuẩn mực đạo đức, truyền thống văn hóa và khát vọng chính đáng của nhân dân.
Tổng Bí thư Tô Lâm. (Nguồn: VGP)
Văn hóa – nền tảng tinh thần cho cải cách thể chế
Ông nhìn nhận thế nào về vai trò của văn hóa trong việc thúc đẩy cải cách thể chế và pháp luật như Tổng Bí thư Tô Lâm đã đề cập trong bài viết "Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình"?
Tôi cho rằng, nhận định của Tổng Bí thư Tô Lâm về vai trò của văn hóa trong cải cách thể chế và pháp luật là một điểm nhấn sâu sắc và mang tính gợi mở chiến lược. Bởi xét đến cùng, mọi thay đổi bền vững trong xã hội dù là thể chế, pháp luật hay quản trị đều không thể chỉ đến từ những mệnh lệnh hành chính hay quy định trên giấy, mà phải bắt nguồn từ sự chuyển hóa trong văn hóa ứng xử, văn hóa tổ chức và văn hóa xã hội.
Văn hóa ở đây không phải chỉ là giá trị nghệ thuật hay truyền thống tinh thần, mà là hệ thống niềm tin, thói quen, cách hành xử của cả cộng đồng bao gồm cả cách con người nhìn nhận pháp luật, thực thi pháp luật và sống trong khuôn khổ pháp luật.
Tổng Bí thư đã nhấn mạnh rất rõ: “Tập trung xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật, bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội”.
Đây không chỉ là một khẩu hiệu chính trị, mà là một định hướng căn bản để thể chế pháp luật có thể vận hành hiệu quả, đi vào đời sống và được bảo vệ bằng niềm tin chứ không chỉ bằng công cụ cưỡng chế.
Nếu thể chế là “hạ tầng cứng” thì văn hóa chính là “hạ tầng mềm”, nơi gieo mầm cho sự tuân thủ tự giác, nơi nuôi dưỡng niềm tin pháp lý và lan tỏa sự đồng thuận xã hội.
Không thể có một xã hội pháp quyền thực chất nếu người dân không cảm thấy pháp luật gần gũi, thân thiện; nếu cán bộ công quyền không cư xử có văn hóa, tôn trọng nhân dân; nếu doanh nghiệp không xây dựng được văn hóa kinh doanh chính trực, minh bạch.
"Văn hóa không chỉ là hồn cốt của dân tộc, mà còn là trụ cột trong công cuộc đổi mới thể chế và pháp luật. Khi văn hóa trở thành động lực nội sinh, soi đường cho tư duy và hành động, thì cải cách thể chế mới thực sự có chiều sâu và mang tính bền vững".
Nhìn từ thực tiễn gần đây có thể thấy vai trò của văn hóa ngày càng rõ nét trong các cải cách thể chế. Khi các địa phương như Quảng Ninh, Bắc Giang, Đà Nẵng triển khai chính quyền số, chuyển đổi số trong giải quyết thủ tục hành chính, điều khiến người dân hài lòng không chỉ là tiến bộ về công nghệ, mà còn là sự thay đổi trong thái độ phục vụ, tức văn hóa hành chính.
Hay khi TP. Hồ Chí Minh tổ chức lại các đơn vị hành chính, điều khiến người dân đồng thuận không chỉ là tính hợp lý của quy hoạch, mà là cách cán bộ tiếp cận người dân một cách cởi mở, tôn trọng, tức văn hóa công vụ.
ĐBQH. Bùi Hoài Sơn cho rằng, một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa muốn bền vững phải được nuôi dưỡng từ sự tham gia tự giác, chủ động của người dân cả trong xây dựng, thực thi lẫn giám sát pháp luật. (Ảnh NVCC)
Chính vì vậy, muốn cải cách thể chế và pháp luật thành công, chúng ta phải thúc đẩy một cuộc “cách mạng văn hóa” song song: Từ tư duy chính sách đến hành vi công quyền, từ thái độ của người dân đến lối sống của cộng đồng. Văn hóa thượng tôn pháp luật, văn hóa chính trị liêm chính, văn hóa minh bạch và trách nhiệm là những điều kiện không thể thiếu để thể chế mới không chỉ được ban hành, mà còn được sống trong lòng xã hội.
Tôi tin rằng, chính văn hóa sẽ là chất keo kết nối giữa pháp luật và đời sống, giữa nhà nước và người dân, giữa lý tưởng đổi mới và hành động thực tiễn. Khi cải cách thể chế được dẫn dắt bằng một nền văn hóa phát triển, chúng ta sẽ không chỉ có một hệ thống pháp luật tiến bộ, mà còn có một xã hội văn minh, nhân ái, bền vững. Đó mới là nền móng sâu nhất, mạnh nhất cho một Việt Nam vươn mình mạnh mẽ trong thế kỷ 21.
Văn hóa không chỉ là “hồn cốt” của dân tộc, mà còn là trụ cột trong công cuộc đổi mới thể chế và pháp luật. Khi văn hóa trở thành động lực nội sinh, soi đường cho tư duy và hành động, thì cải cách thể chế mới thực sự có chiều sâu và mang tính bền vững. Những định hướng mà Tổng Bí thư Tô Lâm nêu trong bài viết không chỉ là kim chỉ nam cho hành động, mà còn là lời nhắc nhở về việc phát huy vai trò của văn hóa trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị – pháp lý đất nước.
Niềm tin xã hội được củng cố, đất nước vươn mình
Tổng Bí thư Tô Lâm cũng đề cập việc bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân và đề cao vai trò giám sát, phản biện xã hội. Theo ông, cần làm gì để thực hiện hiệu quả hơn nữa nhiệm vụ này trong thời gian tới?
Việc Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh quyền làm chủ của nhân dân và vai trò giám sát, phản biện xã hội trong bài viết là một thông điệp vô cùng sâu sắc và kịp thời. Bởi nếu nói cải cách thể chế và pháp luật là “cuộc cách mạng trong cấu trúc”, thì bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân chính là “cuộc cách mạng trong phương thức vận hành” chuyển từ quản lý hành chính đơn chiều sang đối thoại, lắng nghe và đồng kiến tạo.
Một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa muốn bền vững thì không thể chỉ được thiết kế từ trên xuống, mà phải được nuôi dưỡng từ sự tham gia tự giác, chủ động của người dân cả trong xây dựng, thực thi lẫn giám sát pháp luật.
Tổng Bí thư viết rất rõ: “Mục tiêu của thể chế là kiến tạo sự phát triển, nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân; nhân dân thực sự làm chủ; quyết định nhiều vấn đề quan trọng của đất nước”. Điều đó có nghĩa là quyền làm chủ không chỉ thể hiện qua bầu cử hay các hình thức đại diện, mà còn phải được hiện thực hóa qua quyền được biết, tham gia, giám sát và phản biện một cách thực chất, bình đẳng và hiệu quả. Tuy nhiên, để điều đó không chỉ là khẩu hiệu, chúng ta cần có những hành động cụ thể, nhất quán và mạnh mẽ hơn trong thời gian tới. Theo tôi, có ba hướng đi cấp thiết:
Thứ nhất, thể chế hóa rõ ràng và đầy đủ cơ chế để người dân tham gia phản biện, giám sát. Luật đã có một số quy định, nhưng còn dàn trải, thiếu tính ràng buộc, chưa có công cụ pháp lý hiệu quả để người dân, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội tham gia vào quá trình xây dựng, góp ý và đánh giá chính sách ngay từ đầu. Cần có hành lang pháp lý cụ thể, quy trình phản hồi minh bạch, cơ chế “trả lời” trách nhiệm từ phía cơ quan nhà nước như một hợp đồng công khai giữa công quyền và người dân.
Thứ hai, đổi mới mạnh mẽ công tác truyền thông, phổ biến chính sách để người dân “biết mà giám sát, hiểu mà phản biện”. Không ít trường hợp, người dân không tham gia góp ý không phải vì không quan tâm, mà vì thông tin quá khó hiểu, hình thức góp ý không thân thiện, hoặc đơn giản là họ không biết ý kiến mình có giá trị gì. Cần tận dụng công nghệ số, mạng xã hội, trí tuệ nhân tạo để tạo nên các “nền tảng dân chủ số”, nơi mọi người dân đều có thể tiếp cận chính sách dễ dàng và thể hiện tiếng nói của mình một cách văn minh, an toàn, hiệu quả.
Thứ ba, nâng cao vai trò của các tổ chức đại diện, nhất là Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội. Đây chính là cầu nối giữa nhân dân và nhà nước, giữa phản biện và lập pháp, giữa tiếng nói đời sống và quyết định chính sách. Tuy nhiên, để làm được điều đó, các tổ chức này cũng phải đổi mới mình, thực sự là tiếng nói trung thực, khách quan, bản lĩnh chứ không chỉ là nơi “chuyển ý kiến”. Cần đầu tư đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ làm công tác giám sát, phản biện cả về pháp lý, tư duy chính sách và công cụ công nghệ.
Tôi tin rằng, khi quyền làm chủ của nhân dân được phát huy đúng nghĩa, khi phản biện trở thành văn hóa chứ không phải ngoại lệ, khi giám sát được nhìn nhận như một cơ chế bảo vệ chính sách chứ không phải thách thức quyền lực thì đó chính là lúc nền dân chủ Việt Nam trưởng thành, thể chế của chúng ta trở nên thực chất, hiệu quả, nhân văn hơn bao giờ hết. Khi ấy, niềm tin xã hội sẽ được củng cố, hành trình đưa đất nước vươn mình sẽ có điểm tựa sâu rộng nhất chính là lòng dân.
Chỉ khi người dân tin vào luật pháp, doanh nghiệp tin vào môi trường đầu tư, các cấp chính quyền tin vào cơ chế phân cấp rõ ràng thì thể chế mới có thể thực sự phát huy sức mạnh. (Nguồn: Lao động)
Pháp luật đồng hành cùng đời sống, không tạo thêm rào cản
Từ góc nhìn của một đại biểu Quốc hội, ông kỳ vọng điều gì từ hệ thống pháp luật và cải cách thể chế trong nhiệm kỳ tới để tạo động lực mới cho sự phát triển đất nước?
Từ góc nhìn của một đại biểu Quốc hội, tôi mang trong mình không chỉ trách nhiệm lập pháp, giám sát, mà còn là khát vọng được góp một phần công sức vào hành trình phát triển của đất nước, một hành trình đang chuyển mình mạnh mẽ, đòi hỏi những đột phá thực sự về thể chế và pháp luật.
Chính vì thế, khi đọc bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm, tôi đồng cảm với thông điệp xuyên suốt: phải coi thể chế, pháp luật là động lực chiến lược, là “đột phá của đột phá” để đất nước ta vươn mình bước vào kỷ nguyên mới kỷ nguyên của hiện đại hóa, hội nhập sâu rộng và khát vọng hùng cường.
Trong nhiệm kỳ tới, tôi kỳ vọng hệ thống pháp luật Việt Nam sẽ chuyển mạnh từ tư duy “kiểm soát” sang tư duy “kiến tạo phát triển”. Mỗi đạo luật ban hành phải thực sự là đòn bẩy để giải phóng nguồn lực xã hội, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo điều kiện cho doanh nghiệp lớn lên và người dân yên tâm làm ăn, sinh sống. Pháp luật phải đồng hành cùng đời sống, tháo gỡ vướng mắc, chứ không tạo thêm rào cản.
Tôi cũng mong chờ một hệ thống pháp luật liên thông – linh hoạt – minh bạch – khả thi, không còn tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, mỗi bộ ngành một luật, mỗi địa phương một cách hiểu, mà hướng đến một khung khổ pháp lý đồng bộ, dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ giám sát.
Đặc biệt, tôi kỳ vọng cải cách thể chế lần này sẽ thực sự đi vào chiều sâu, gắn chặt với tinh gọn bộ máy và chuyển đổi mô hình quản trị. Khi chúng ta sáp nhập các đơn vị hành chính, giảm tầng nấc trung gian, thì hệ thống pháp luật cũng phải tinh giản tương ứng, không thể giữ nguyên cơ chế cũ trên một bộ máy mới. Hãy để luật pháp trở thành chiếc cầu nối giữa nhà nước hiệu quả và người dân hài lòng.
Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng tổ chức thi hành pháp luật. Luật tốt mà không được thực thi nghiêm minh thì cũng vô nghĩa. Tôi mong các cơ quan hành pháp, tư pháp được trao quyền đầy đủ hơn, đồng thời cũng bị giám sát chặt chẽ hơn để bảo đảm sự liêm chính và hiệu quả.
Cuối cùng, với tư cách là một đại biểu Quốc hội, tôi đặt niềm tin rằng Quốc hội sẽ tiếp tục đổi mới mạnh mẽ cả trong hoạt động lập pháp lẫn giám sát, thực sự là cơ quan quyền lực cao nhất, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân một cách sống động, bản lĩnh và trách nhiệm.
Chỉ khi người dân tin vào luật pháp, doanh nghiệp tin vào môi trường đầu tư, các cấp chính quyền tin vào cơ chế phân cấp rõ ràng thì thể chế mới có thể thực sự phát huy sức mạnh. Khi ấy, Việt Nam không chỉ tăng trưởng, mà còn phát triển thực chất, bền vững, tự tin vươn ra thế giới với tư cách là một quốc gia pháp quyền hiện đại, nhân văn và thịnh vượng.
Dũng Quỳnh Anh