ĐBQH. Phạm Trọng Nghĩa: Tăng lương cơ sở cần đi kèm với các biện pháp kiểm soát giá

ĐBQH. Phạm Trọng Nghĩa: Tăng lương cơ sở cần đi kèm với các biện pháp kiểm soát giá
11 giờ trướcBài gốc
ĐBQH. Phạm Trọng Nghĩa cho rằng, tăng lương cơ sở là nhu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. (Nguồn: Quốc hội)
Việc tăng lương cơ sở được xem là kỳ vọng lớn của hàng triệu cán bộ, công chức, viên chức trong bối cảnh giá cả leo thang và áp lực chi tiêu ngày càng tăng. Chia sẻ với Báo Thế giới và Việt Nam, ĐBQH. Phạm Trọng Nghĩa, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội nhấn mạnh, cần tiếp tục tăng lương cơ sở để bù đắp trượt giá tiêu dùng. Đồng thời, tạo động lực để cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong khu vực công nâng cao đời sống, tăng cường động lực làm việc, giúp giữ chân nhân tài...
Tránh "lương tăng nhưng thực thu giảm"
Dưới góc nhìn của ông, tăng lương cơ sở lúc này mang ý nghĩa như thế nào đối với niềm tin của đội ngũ công chức, viên chức vào chính sách tiền lương và cải cách bộ máy nhà nước?
Việc tăng lương cơ sở trong thời gian vừa qua, cụ thể từ mức 1,8 triệu đồng/tháng lên 2,34 triệu đồng/tháng theo Nghị định 73/2024/NĐ-CP áp dụng từ năm 2024 thể hiện sự quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước đối với hàng triệu cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong khu vực công. Việc tăng lương cơ sở năm 2024 đã góp phần quan trọng ổn định và nâng cao đời sống của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong khu vực công nhất là trong bối cảnh sau Đại dịch Covid-19.
"Ổn định kinh tế vĩ mô là nền tảng để kiểm soát giá và để tăng lương thực sự cải thiện đời sống, trở thành động lực phát triển bền vững".
Trong giai đoạn tới, tôi cho rằng cần tiếp tục tăng lương cơ sở để bù đắp trượt giá tiêu dùng từ năm 2024 đến nay. Đồng thời, tạo động lực để cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong khu vực công nâng cao đời sống, tăng cường động lực làm việc, giúp giữ chân nhân tài, khuyến khích niềm tin, sự cống hiến, giảm tỷ lệ nghỉ việc và nâng cao chất lượng phục vụ của khu vực công.
Nhiều ý kiến cho rằng "tăng lương chỉ là một vế của bài toán", bởi nếu không kiểm soát được giá cả sinh hoạt, thì lương tăng cũng khó cải thiện đời sống thực chất. Đại biểu đánh giá thế nào về mối quan hệ giữa tăng lương, kiểm soát giá và ổn định kinh tế vĩ mô trong giai đoạn hiện nay?
Tôi hoàn toàn đồng tình rằng tăng lương chỉ là một phần của bài toán toàn diện và mối quan hệ giữa tăng lương, kiểm soát giá cả cùng ổn định kinh tế vĩ mô phải được xem xét một cách đồng bộ, biện chứng. Trong giai đoạn hiện nay, với lạm phát toàn cầu có xu hướng tăng và áp lực từ chuỗi cung ứng bị gián đoạn, việc tăng lương cơ sở cần đi kèm với các biện pháp kiểm soát giá để tránh tình trạng "lương tăng nhưng thực thu giảm".
Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam giai đoạn 2025-2030 với mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân trên 10%/năm, việc tăng lương phải đồng bộ với kiểm soát giá cả và ổn định kinh tế vĩ mô. Nếu không, tăng lương sẽ chỉ mang tính "ảo", không cải thiện được đời sống thực chất.
Thực tiễn cho thấy, nếu không kiểm soát giá, tăng lương có thể dẫn đến vòng luẩn quẩn lạm phát, như trường hợp một số quốc gia Đông Nam Á từng gặp phải trong thập niên 2010, nơi lương tăng 20% nhưng giá thực phẩm tăng 30%, làm giảm hiệu quả cải thiện đời sống. Do đó, ổn định kinh tế vĩ mô là nền tảng để kiểm soát giá và để tăng lương thực sự cải thiện đời sống, trở thành động lực phát triển bền vững.
Thực tế cho thấy, nhiều công chức, viên chức trẻ rời khu vực công không phải vì thiếu đam mê hay trách nhiệm, mà vì thu nhập không đủ sống. Vậy làm sao để chính sách tiền lương trở thành công cụ giữ chân và thu hút nhân tài vào khu vực công, thay vì chỉ là biện pháp hỗ trợ tạm thời?
Đây là câu chuyện không mới. Thu nhập thấp là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc nhiều công chức trẻ rời khu vực công sang làm việc ở khu vực tư với mức thu nhập tốt hơn. Đáng quan ngại, phần lớn những bạn trẻ này có trình độ và năng lực trong công việc. Điều này đòi hỏi chính sách tiền lương khu vực công phải được nâng tầm thành công cụ chiến lược, không chỉ hỗ trợ tạm thời mà còn tạo sức hút lâu dài.
Để đạt được điều này, chúng ta cần xây dựng hệ thống lương cạnh tranh, kết hợp với các yếu tố phi tài chính như cơ hội thăng tiến và môi trường làm việc. Để thu hút nhân tài, chính sách cần linh hoạt hơn, như áp dụng mức lương khởi điểm cao hơn cho các vị trí đòi hỏi chuyên môn sâu (như IT hoặc y tế công cộng), đồng thời kết hợp đào tạo liên tục và chính sách nhà ở ưu đãi.
Nếu chỉ dừng ở tăng lương cơ sở, chúng ta sẽ khó cạnh tranh với khu vực tư nhân, nơi lương trung bình cao gấp 1,5-2 lần; thay vào đó, cần một lộ trình dài hạn nhằm biến khu vực công thành điểm đến hấp dẫn cho thế hệ trẻ, góp phần xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước.
Cần giải pháp song hành để tăng tính bền vững
Theo ông, chúng ta cần những giải pháp gì song hành để tăng năng suất lao động khu vực công, cải thiện hiệu quả chi tiêu công và bảo đảm việc tăng lương thực sự bền vững, không tạo gánh nặng ngân sách?
Tăng lương là nhu cầu cấp thiết, tuy nhiên, với ngân sách nhà nước còn hạn chế, chúng ta phải triển khai các giải pháp song hành để đảm bảo tính bền vững, tránh tạo gánh nặng lâu dài.
Trước hết, cần nâng cao năng suất lao động khu vực công thông qua chuyển đổi số và đào tạo. Thứ hai, cải thiện hiệu quả chi tiêu công bằng cách áp dụng cơ chế giám sát chặt chẽ, như kiểm toán độc lập đối với các dự án đầu tư công, giúp giảm lãng phí để tạo nguồn lực cho tăng lương. Cuối cùng, để bền vững, cần đa dạng hóa nguồn thu ngân sách qua cải cách thuế và thu hút đầu tư nước ngoài, đồng thời tinh giản biên chế không cần thiết.
Bên cạnh tăng lương, nhiều ý kiến đề xuất giảm giờ làm cho người lao động trong khu vực tư, coi đó là bước tiến nhân văn, góp phần nâng cao năng suất và chất lượng cuộc sống. Ông nghĩ sao về tính khả thi của lộ trình giảm giờ làm? Liệu điều này có nên được xem là một phần trong tổng thể chính sách cải thiện thu nhập và phúc lợi cho người lao động hiện nay?
Tôi hoàn toàn ủng hộ việc giảm giờ làm việc tiêu chuẩn cho người lao động trong khu vực tư. Tại diễn đàn Quốc hội, tôi cũng đã nhiều lần kiến nghị giảm giờ làm việc bình thường cho người lao động trong khu vực tư từ 48 giờ/tuần xuống 44 giờ/tuần từ năm 2026, tiến tới 40 giờ/tuần từ năm 2030 như trong khu vực công.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), trong số 155 quốc gia được khảo sát về quy định giờ làm việc ở khu vực tư có tới 2/3 quốc gia áp dụng dưới 48 giờ làm việc/tuần. Như nước láng giềng Trung Quốc, họ áp dụng 40 giờ làm việc/tuần. Ở khu vực châu Âu, một số quốc gia áp dụng 35 giờ làm việc/tuần.
"Tăng lương là nhu cầu cấp thiết, tuy nhiên, với ngân sách nhà nước còn hạn chế, chúng ta phải triển khai các giải pháp song hành để đảm bảo tính bền vững, tránh tạo gánh nặng lâu dài".
Việc giảm giờ làm có ý nghĩa về nhiều mặt. Đối với người lao động, giảm giờ làm sẽ giúp người lao động có thêm thời gian nghỉ ngơi, tái tạo sức lao động và chăm lo cho gia đình.
Nếu người lao động vẫn duy trì số thời gian làm việc như trước thì thu nhập sẽ tăng vì số giờ làm thêm sẽ nhiều lên (hiện nay thời gian làm việc trong khu vực tư là 48 tiếng 1 tuần, nếu người lao động làm 50 tiếng/ 1 tuần thì sẽ được tính lương làm thêm giờ 2 tiếng/1 tuần; nếu giảm thời gian làm việc xuống 44 giờ thì số giờ làm thêm sẽ là 6 giờ).
Đối với doanh nghiệp, trong ngắn hạn có thể phải tuyển thêm người hoặc tăng số thời gian làm thêm dẫn đến tăng chi phí. Tuy nhiên, trong dài hạn, việc giảm giờ làm sẽ gây sức ép để doanh nghiệp cải tiến mô hình sản xuất, nâng cao hiệu quả và tăng năng suất lao động.
Đối với xã hội, giảm giờ làm là để bảo vệ lực lượng lao động, phát triển nguồn nhân lực – tài sản quý giá nhất của quốc gia. Đây cũng là xu hướng tiến bộ của nhiều quốc gia trên thế giới.
TS. Phạm Trọng Nghĩa là nghiên cứu sinh sau tiến sĩ về Quản trị toàn cầu tại Đại học Princeton, Mỹ (2015-2016) và tại Đại học Oxford, Vương quốc Anh (2016-2017).
Nguyệt Anh
Nguồn TG&VN : https://baoquocte.vn/dbqh-pham-trong-nghia-tang-luong-co-so-can-di-kem-voi-cac-bien-phap-kiem-soat-gia-333457.html