Để kinh tế Việt Nam hiện thực hóa giấc mơ hóa 'rồng'

Để kinh tế Việt Nam hiện thực hóa giấc mơ hóa 'rồng'
3 ngày trướcBài gốc
Định hướng đầu tư vào công nghiệp chế biến, công nghệ cao
“Nguy cơ tụt hậu, bẫy thu nhập trung bình lúc nào cũng rình rập, nếu chúng ta không tìm được con đường mới, bước đi mới” là thông điệp được Tổng Bí thư Tô Lâm chia sẻ tại buổi gặp mặt các nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cán bộ lão thành tiêu biểu, đại biểu trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ các tỉnh thành phía Nam hồi đầu năm nay.
Việc thiết lập chính sách hỗ trợ đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao là phản ứng cần có lúc này. Ảnh: T.L
Những phát biểu của Tổng Bí thư là rất thẳng thắn, trách nhiệm và đầy trăn trở, vì “tụt hậu xa hơn về kinh tế” được xác định là một trong trong nguy cơ lớn nhất của nước ta từ Đại hội VII năm 1991 đến nay.
Cụ thể, GDP bình quân đầu người theo giá thực tế của thế giới và Việt Nam năm 1990 lần lượt là 4.168 và 98 đô la Mỹ, cách nhau 4.070 đô la, theo Ngân hàng Thế giới (WB). Năm 2023, GDP bình quân đầu người của thế giới và Việt Nam lần lượt là 13.138 và 4.346 đô la, cách nhau 8.792 đô la.
Còn tại hội thảo khoa học quốc gia “Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” diễn ra cuối năm 2024, một thông tin được đưa ra là thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam chỉ tăng 1.600 đô la trong 15 năm gần đây, trong khi con số này tại Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc lần lượt là 3.600, 6.500 và 16.000 đô la.
Về quy mô nền kinh tế, tổng GDP của Việt Nam chỉ tăng 160 tỉ đô la, trong khi Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc lần lượt tăng 270, 200, và 850 tỉ đô la.
Mới đây, trong bài viết "Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng", Tổng Bí thư tiếp tục nhấn mạnh thực trạng phần lớn doanh nghiệp tư nhân Việt Nam thuộc nhóm doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, tiềm lực tài chính và trình độ quản trị hạn chế, thiếu sự kết nối với nhau, cũng như với khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài; chưa tận dụng tốt các cơ hội mà cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại, vẫn chậm chuyển đổi số, rất ít doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D), ít chú trọng đổi mới mô hình kinh doanh, đổi mới công nghệ hoặc sáng tạo sản phẩm mới.
Vì vậy, rất khó nâng cao giá trị gia tăng, thúc đẩy năng lực cạnh tranh, nâng tầm giá trị doanh nghiệp và vươn tới đẳng cấp quốc tế.
Tất cả những điều trên cho thấy, dù tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nằm trong nhóm cao của thế giới, nhưng mức tăng trưởng tuyệt đối rất nhỏ và khoảng cách của Việt Nam so với các quốc gia vẫn còn xa.
Muốn đất nước không tụt hậu, thậm chí trở thành thành nước phát triển, có thu nhập cao đến năm 2045, Tổng Bí thư cho rằng có hai điểm mấu chốt.
Thứ nhất, nhận thức và ý chí chính trị. Hiện Trung ương Đảng đã thống nhất, hệ thống chính trị đã được quán triệt, quyết tâm triển khai và được sự đồng tình, ủng hộ rất cao của nhân dân.
Thứ hai, coi khoa học công nghệ là đột phá với Nghị quyết 57. Đây không phải là vấn đề Đảng mới đề cập, nhưng lần này, khoa học công nghệ được nâng cấp thành động lực hàng đầu trong quá trình phát triển mới của đất nước. Chính phủ sẽ có chương trình hành động và Quốc hội sẽ thể chế hóa.
Do đó, ông mong muốn đội ngũ trí thức các nhà khoa học nỗ lực cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện thành công những mục tiêu chiến lược của đất nước.
Hơn nữa, Tổng Bí thư cũng đưa ra thông điệp về việc Nhà nước cần định hướng, hỗ trợ hiệu quả doanh nghiệp tư nhân Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, thu hút mạnh mẽ dòng vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến, hình thành đội ngũ doanh nhân có tư duy toàn cầu.
Đặc biệt, cần có chính sách khuyến khích và định hướng doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp hóa nông nghiệp, công nghệ cao, thay vì tập trung quá nhiều vào bất động sản và các lĩnh vực có tính đầu cơ ngắn hạn.
Cần chính sách hỗ trợ tài chính cho đổi mới sáng tạo
Định hướng được người đứng đầu Đảng đưa ra là rất rõ ràng. Nhưng trong bối cảnh thế giới và khu vực xuất hiện nhiều biến động khó lường, chủ nghĩa bảo hộ có xu hướng quay lại trong quan hệ đa phương/song phương, thì giải pháp tận dụng sự chia sẻ công nghệ lõi, thành tựu khoa học vượt trội của các quốc gia để đi tắt, đón đầu dự kiến sẽ đối mặt với nhiều khó khăn.
Việt Nam cần khẩn trương cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là kỹ sư cơ khí, điện tử có khả năng sử dụng tiếng Anh và công nghệ thông tin đang rất khan hiếm. Ảnh: Minh Phúc
Nếu muốn có bước nhảy vọt về khoa học công nghệ, Việt Nam không còn cách nào khác là phải tự đổi mới. Theo đó, việc đổi mới sáng tạo cần được khuyến khích ngay trong khu vực quản lý công - tức bản thân những nhà quản lý phải tìm ra phương thức quản lý mới, gạt bỏ các quy chuẩn, quy trình không còn phù hợp.
Với doanh nghiệp, tại một hội thảo về vốn ngân hàng góp phần thúc đẩy kinh tế tư nhân diễn ra mới đây, ông Nguyễn Kim Hùng, Chủ tịch Tập đoàn Kim Nam, thẳng thắn thừa nhận doanh nghiệp rất cần Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước đưa ra các chương trình, chính sách hỗ trợ tài chính cho đổi mới sáng tạo.
“Hiện ngay cả ngân hàng cũng chưa có gói vay riêng dành cho doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Khi có thể chế cụ thể, rất mong các ngân hàng dành ra một nguồn vốn nhất định cho lĩnh vực này. Doanh nghiệp muốn phát triển khoa học sáng tạo phải mất ít nhất 10 năm, nếu có sự hỗ trợ thì thời gian sẽ rút ngắn đáng kể”, ông Hùng nói và kỳ vọng có thêm các chính sách về lãi suất ưu đãi, giúp doanh nghiệp có động lực đầu tư sản xuất - kinh doanh dài hạn.
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào nguồn vốn ngân hàng là không đủ. Hơn nữa, với tính chất vốn của ngân hàng - tức phải sử dụng vốn tự có, vốn điều lệ của các ngân hàng, vốn tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ, để cho vay - thì không thể đảm đương tất cả nhu cầu vốn. Đây là lúc doanh nghiệp cần sự hỗ trợ của nhiều nguồn lực khác, như: ngân sách, quỹ đầu tư… phù hợp với từng lĩnh vực.
Cụ thể, khuôn khổ để doanh nghiệp phát triển không chỉ là vốn tín dụng, mà còn là vốn đầu tư dài hạn. Về phía Nhà nước cần mở ra thị trường vốn đầu tư đa dạng hơn, giảm gánh nặng cho phía ngân hàng. Thậm chí, phát triển thị trường vốn có các loại quỹ, điều mà hiện Việt Nam thiếu rất nhiều.
Để hiện việc này, các chuyên gia cho rằng các cơ quan quản lý có thể tăng cường vốn cho hệ thống quỹ bảo lãnh tín dụng, nhằm giảm bớt rủi ro cho ngân hàng và hỗ trợ doanh nghiệp không có tài sản đảm bảo. Bên cạnh đó, có thể thúc đẩy các mô hình tài chính thay thế để mở rộng kênh huy động vốn.
Chẳng hạn, mô hình thuê tài chính (leasing), nơi doanh nghiệp có thể thuê thiết bị, máy móc thay vì mua, giúp giảm áp lực tài chính ban đầu và tối ưu hóa dòng tiền.
Mô hình tín dụng chuỗi cung ứng sẽ là kênh các doanh nghiệp có thể vay dựa trên hợp đồng đầu vào, đầu ra, giúp họ duy trì hoạt động sản xuất mà không cần tài sản thế chấp.
Ngoài ra, mô hình gọi vốn cộng đồng (crowdfunding) và cho vay ngang hàng (P2P Lending) cũng có thể xem xét, phát triển, giúp doanh nghiệp có thể huy động vốn từ cộng đồng, nhà đầu tư qua các nền tảng công nghệ, giúp tiếp cận nguồn vốn nhanh chóng mà không cần qua trung gian ngân hàng.
Vân Phong
Nguồn Saigon Times : https://thesaigontimes.vn/de-kinh-te-viet-nam-hien-thuc-hoa-giac-mo-hoa-rong/