Theo phản ánh của bà Trần Thị Nơi (TP.HCM), bà và chồng là ông Trần Văn Sáu được cha mẹ chồng cho các thửa đất tại huyện Hóc Môn, TP.HCM. Các thửa đất này đã được cấp 3 giấy chứng nhận vào các năm 1998, năm 2004 và năm 2010. Năm 2013, vợ chồng bà đã tặng cho con gái một mảnh đất (cấp giấy năm 2004).
Căn nhà bà Nơi và các con đang sinh sống. Ảnh: TRẦN LINH
Đã được cấp giấy nhưng tòa vẫn chia thừa kế?
Năm 2014, ông Sáu mất nên các thửa đất còn lại được khai nhận di sản thừa kế cho bà Nơi.
Sau đó, năm 2017, hai chị em ruột của ông Sáu (bà L - mất năm 2023 và bà E) khởi kiện yêu cầu hủy các giấy chứng nhận trên, chia thừa kế theo pháp luật.
Theo đơn khởi kiện, bà L và bà E cho rằng UBND huyện Hóc Môn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Sáu, bà Nơi không tuân thủ trình tự, thủ tục luật định; toàn bộ diện tích nhà, đất là di sản của cha mẹ...
UBND huyện Hóc Môn thì cho rằng thửa đất cấp năm 1998 tuy có nguồn gốc từ cha mẹ ông Sáu nhưng phần đất này đã được cấp giấy chứng nhận cho ông Sáu; sau đó đã được điều chỉnh biến động năm 2010 và năm 2014 bà Nơi đã nhận thừa kế phần đất này. Căn cứ khoản 5 Điều 87 Nghị định 43/2014, UBND huyện Hóc Môn không thu hồi giấy chứng nhận đã cấp cho chồng bà Nơi. Đối với các thửa đất còn lại đã được vợ chồng bà Nơi sử dụng ổn định từ khi cha mẹ ông Sáu chết thì việc cấp giấy là đúng quy định nên không có cơ sở thu hồi giấy chứng nhận.
Xét xử sơ thẩm ngày 22-4-2022, TAND TP.HCM đã ban hành Bản án sơ thẩm số 495/2022/DS-ST, chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của bà L và bà E. Tòa xác định tài sản để chia thừa kế là các thửa đất theo 3 giấy chứng nhận nêu trên và xác định có 6 đồng thừa kế. Tòa ghi nhận sự tự nguyện của các nguyên đơn và các đồng thừa kế; tính công sức giữ gìn và bảo quản cho ông Sáu tương đương 1 suất thừa kế được chia.
Cụ thể, thửa đất có căn nhà mà bà Nơi và các con sinh sống được chia thành 7 phần: các thừa kế của ông Sáu (bà Nơi và các con) nhận 2 phần, 5 phần còn lại chia cho 5 đồng thừa kế khác. Bà Nơi và các con được quản lý sử dụng nhà đất này nhưng có trách nhiệm hoàn trả bằng tiền cho các đồng thừa kế khác trong thời hạn 4 tháng.
Đối với các thửa đất còn lại cũng chia làm 7 phần, bà Nơi và các con được 2 phần; còn 5 đồng thừa kế khác được 5 phần.
Sau đó, bà Nơi và con gái kháng cáo vì cho rằng bản án sơ thẩm có nhiều vi phạm về tố tụng lẫn nội dung…
Xử phúc thẩm tháng 11-2022 (Bản án phúc thẩm số 751/2022/DS-PT), TAND Cấp cao tại TP.HCM cho rằng cấp sơ thẩm xác định các thửa đất là di sản thừa kế của cha mẹ ông Sáu và chia theo pháp luật là đúng. Tuy nhiên phần quyết định nêu "trong thời hạn 4 tháng, nếu bà Nơi và các con không thanh toán đủ số tiền cho 5 thừa kế còn lại thì các đồng thừa kế này có quyền yêu cầu phát mãi tài sản" là chưa đúng, cần sửa lại cho chính xác.
Cạnh đó, tại phiên tòa phúc thẩm, bà Nơi cung cấp chứng từ về việc nộp tiền sử dụng hơn 73 triệu đồng. Tòa ghi nhận sự tự nguyện của bà L, E và các đồng thừa kế khác tự nguyện thanh toán cho bà Nơi số tiền này.
Từ đó, HĐXX phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bà Nơi, bà L; giữ nguyên bản án sơ thẩm (bỏ phần thời hạn 4 tháng và ghi nhận việc trả hơn 73 triệu đồng cho bà Nơi).
Các thửa đất nông nghiệp bà Nơi đang cho 2 người thuê (trên đất có 2 căn nhà bằng tôn và lá) đang canh tác hoa màu. Ảnh: TRẦN LINH
Bà Nơi đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm
Theo ghi nhận của PV, hiện nay đối với thửa đất có căn nhà, bà Nơi đang sinh sống và có các phòng cho thuê.
Còn đối với các thửa đất nông nghiệp, bà đang cho 2 người thuê, trên đất có 2 căn nhà bằng tôn và lá và đang canh tác hoa màu. Trao đổi với PV, hai người đang thuê đất cho biết họ đã thuê đất từ năm 2016, 2017 trả tiền hằng năm. Họ đã đầu tư rất nhiều trên đất. Tuy nhiên họ không được tòa án triệu tập tham gia làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của họ.
Theo bà Nơi, các thửa đất xuất phát từ tài sản của cha mẹ ông Sáu nhưng năm 1976 cha mẹ ông Sáu đã tặng cho ông Sáu, bà Nơi quản lý sử dụng. Thời điểm này pháp luật không cấm tặng cho bằng miệng. Tất cả các anh chị của ông Sáu đều biết và thừa nhận việc tặng cho, nhất là bà L là người cùng cùng sống trên thửa đất này.
Cho đến năm 1992, ông Sáu, bà Nơi đã đập bỏ nhà cũ, xây lại nhà mới kiên cố, đã kê khai và có tên trong sổ mục kê. Đây chính là tài liệu quan trọng xác định từ thời điểm 1992 nhà đất đã thuộc sở hữu của ông Sáu, bà Nơi và thời điểm này cha mẹ ông Sáu không hề có phản đối.
Đến năm 1998, UBND huyện Hóc Môn đã cấp giấy cho vợ chồng ông Sáu. Công văn của UBND huyện Hóc Môn thể hiện rõ nguồn gốc như trên.
Ông Sáu, bà Nơi đã nhiều lần sửa chữa nhà, khai phá, canh tác trên đất nhưng không gặp sự phản đối của ai. Bằng chứng là không tồn tại tranh chấp nào tại cơ quan nhà nước từ năm 1976. Ông Sáu là con trai út nên nuôi dưỡng cha mẹ. Cho đến năm 2014 khi ông Sáu mất thì các anh chị em mới quay về kiện đòi đất.
Cạnh đó, năm 2013, ông Sáu bà Nơi đã lập hợp đồng tặng cho con gái một thửa đất và đã được sang tên hợp pháp. Lúc tặng cho anh em ông Sáu đều biết và cũng không phản đối.
Vì vậy, bà Nơi cho rằng việc xác định các thửa đất là di sản của cha mẹ ông Sáu để chia thừa kế là không đúng sự thật vụ án, không phù hợp với ý chí của cha mẹ ông Sáu lúc sinh thời và ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của ông Sáu, bà Nơi cùng các con.
Cạnh đó, Án lệ số 03/2016/AL xác định trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia đình không có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ chồng người con đã được tặng cho quyền sử dụng đất.
Theo bà Nơi, như vậy việc cha mẹ ông Sáu cho vợ chồng bà đất và đã xây nhà kiên cố, sống ổn định, cha mẹ và các anh chị em không ai phản đối, đã được cấp giấy thì phải xác định vợ chồng bà đã được tặng cho quyền sử dụng đất. Tình huống pháp lý vụ án có tính chất tương tự như Án lệ số 03/2016. Thế nhưng hai cấp tòa lại không áp dụng Án lệ 03/2016 mà lại buộc bà phải thanh toán bằng tiền cho các đồng thừa kế là không đúng.
Bà Nơi cũng dẫn chứng Quyết định giám đốc thẩm số 212/2023/DS-GĐT ngày 14-9-2023 của chính TAND Cấp cao tại TP.HCM. Quyết định giám đốc thẩm số 212/2023 đã tuyên hủy cả hai bản án sơ và phúc thẩm tại tỉnh Tây Ninh vì đi ngược với Án lệ số 03/2016 với tình huống pháp lý tương tự như vụ án của bà.
Vì vậy, bà Nơi đã làm đơn đề nghị cấp giám đốc thẩm hủy cả hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm.
Nhiều vi phạm về tố tụng
Bản án phúc thẩm đã bỏ đi thời hạn 4 tháng và ghi nhận các bà L, E và các đồng thừa kế tự nguyện thanh toán cho tôi hơn 73 triệu đồng. Tuy nhiên, tại phần quyết định của bản án phúc thẩm lại tuyên giữ nguyên bản án sơ thẩm là tự mâu thuẫn.
Cạnh đó, tòa không triệu tập người liên quan vào tham gia vụ án. Trên các thửa đất có những người thuê nhà và đất để canh tác, tôi đã cung cấp thông tin của những người thuê này. Tòa đã đến thẩm định tại chỗ biết trên đất có người thuê. Thế nhưng hai cấp tòa đã không triệu tập họ tham gia.
Cạnh đó, một đồng thừa kế đã chết nhưng tòa không đưa những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của người này vào tham gia tố tụng mà vẫn để người được ủy quyền trước đây vào tham gia tố tụng. Đây là vi phạm nghiêm trọng nhưng cấp phúc thẩm lại cho rằng việc hủy án sơ thẩm vì lý do trên là không cần thiết, chỉ cần nghiêm túc rút kinh nghiệm.
Bà TRẦN THỊ NƠI
YẾN CHÂU