Phấn đấu GDP đạt từ 10%/năm trở lên
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, sáng 7/11, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh, Quốc hội nghe Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế và Tài chính về việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng trình bày Tờ trình
Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, các nội dung quy hoạch được bổ sung, điều chỉnh nhằm phù hợp với việc sắp xếp đơn vị hành chính các cấp, thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp; phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng hai chữ số trong giai đoạn 2026 - 2030 và các năm tiếp theo.
Đồng thời, thực hiện các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về đột phá phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, giáo dục và đào tạo; bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân; an ninh năng lượng...; ứng phó với các biến động nhanh, khó lường của bối cảnh quốc tế.
Điều chỉnh, bổ sung một số nội hàm trong mục tiêu tổng quát như sau: Phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; xác lập mô hình tăng trưởng mới, lấy khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính; mô hình tổ chức không gian phát triển quốc gia hiệu quả, thống nhất, bền vững, các vùng động lực, hành lang kinh tế, cực tăng trưởng phát huy vai trò đi đầu, dẫn dắt trong phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; có mạng lưới kết cấu hạ tầng cơ bản đồng bộ, hiện đại; bảo đảm các cân đối lớn, nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế...
Đồng thời, điều chỉnh một số chỉ tiêu chủ yếu như sau: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân đạt trên 8,0%/năm thời kỳ 2021 - 2030; trong đó, giai đoạn 2026 - 2030 đạt từ 10%/năm trở lên.
Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 8.500 USD. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt trên 8,5%/năm giai đoạn 2026 - 2030. Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt trên 55%. Chỉ số phát triển con người (HDI) đạt khoảng 0,78.
Cả nước được phân thành 6 vùng
Về phân vùng kinh tế - xã hội, định hướng phát triển và liên kết vùng, trên cơ sở đánh giá hiện trạng lãnh thổ nước ta, các phương án phân vùng qua từng thời kỳ và yêu cầu phát triển trong bối cảnh mới, cả nước được phân thành 6 vùng. Đồng thời, bổ sung, điều chỉnh định hướng phát triển vùng và liên kết vùng.
Quốc hội nghe Tờ trình của Chính phủ về việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030
Cụ thể, vùng Trung du và miền núi phía Bắc: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân đạt khoảng 9 - 10%/năm giai đoạn 2026 - 2030. Phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, năng lượng, ưu tiên công nghiệp cơ khí chế tạo, điện tử, công nghệ số; đẩy mạnh dịch vụ logistics trên cơ sở khai thác lợi thế các cửa khẩu quốc tế và các tuyến đường sắt kết nối quốc tế.
Vùng Đồng bằng sông Hồng: Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 11%/năm giai đoạn 2026 - 2030. Xây dựng vùng đồng bằng sông Hồng là động lực phát triển hàng đầu, có vai trò định hướng, dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và xác lập mô hình tăng trưởng mới của đất nước. Phát triển nhanh các ngành dịch vụ mới như công nghiệp sáng tạo, tài chính công nghệ, logistics thông minh, dịch vụ công nghệ số.
Vùng Bắc Trung Bộ: Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 10 - 10,5%/năm giai đoạn 2026 - 2030. Ưu tiên phát triển các khu kinh tế ven biển tập trung vào một số ngành trọng điểm phù hợp với các địa phương, tạo đột phá tăng trưởng. Phát triển các ngành công nghiệp lọc hóa dầu, luyện kim, cơ khí chế tạo, sản xuất ô tô và phụ trợ, công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, năng lượng tái tạo. Xây dựng thành phố Huế trở thành trung tâm lớn, đặc sắc của khu vực Đông Nam Á.
Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 9,5 - 10,0%/năm giai đoạn 2026 - 2030. Tại khu vực duyên hải đẩy mạnh kinh tế biển, phát triển mạnh công nghiệp cơ khí chế tạo, luyện kim, lọc hóa dầu; cảng biển và dịch vụ logistics; du lịch biển, đảo; nuôi trồng và khai thác thủy sản...
Vùng Đông Nam Bộ: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 10%/năm giai đoạn 2026 - 2030. Phát triển mạnh các ngành công nghiệp cơ khí chế tạo, hóa dầu, hóa chất, dược phẩm, vật liệu mới, điện tử, chíp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, an ninh mạng, công nghiệp công nghệ số. Phát triển vùng trở thành trung tâm dịch vụ của khu vực Đông Nam Á về tài chính, thương mại, du lịch, giao lưu quốc tế...
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long: Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 9,0 - 9,5%/năm giai đoạn 2026 - 2030. Phát triển vùng Đồng bằng sông Cửu Long thành trung tâm kinh tế nông nghiệp hiện đại, bền vững, năng động và hiệu quả cao; đẩy mạnh phát triển nông nghiệp số, nông nghiệp thông minh...
Đề nghị làm rõ hơn phương án phân vùng mới
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi cho biết, Ủy ban Kinh tế và Tài chính đồng tình với Tờ trình của Chính phủ, cho rằng việc bổ sung điều chỉnh các nội dung của quy hoạch tổng thể quốc gia nhằm phù hợp với bối cảnh mới sau sắp xếp đơn vị hành chính các cấp, thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2026 - 2030 và những năm tiếp theo.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi
Tuy nhiên, Ủy ban Kinh tế và Tài chính nhận thấy, đối với các vùng, địa phương có sự điều chỉnh về phạm vi địa giới hành chính và đặt tên mới cần rà soát kỹ về nội dung quy hoạch và tên vùng, tỉnh để chỉnh sửa, thống nhất, tránh các kiểu khác nhau, gây khó khăn trong việc cụ thể hóa thực hiện nghị quyết.
Về quan điểm phát triển, Ủy ban Kinh tế và Tài chính đề nghị xem xét, hoàn thiện quan điểm, nguyên tắc điều chỉnh quy hoạch tổng thể quốc gia theo hướng đề cao tính ổn định dài hạn của quy hoạch, bảo đảm tính dự báo cao, cơ sở khoa học và thực tiễn vững chắc, tránh tư duy nhiệm kỳ hoặc điều chỉnh cục bộ ngắn hạn.
Về điều chỉnh phân vùng và định hướng phát triển vùng kinh tế xã hội, Ủy ban Kinh tế và Tài chính nhận thấy việc phân vùng kinh tế - xã hội cơ bản vẫn giữ nguyên số lượng là 6 vùng.
Tuy nhiên, Chủ nhiệm Phan Văn Mãi nêu rõ, kết cấu, phạm vi từng vùng có sự thay đổi lớn về số lượng đơn vị hành chính cấp tỉnh, quy mô diện tích, dân số do sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, trong đó, vùng Bắc Trung Bộ và vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên là hai vùng có sự thay đổi lớn so với trước đây.
Do đó, đề nghị làm rõ hơn phương án phân vùng mới sẽ tác động, ảnh hưởng như thế nào đến phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng, đánh giá trên liên kết vùng. Bên cạnh đó, Ủy ban Kinh tế và Tài chính đề nghị thuyết minh, làm rõ hơn tính đặc thù, vị trí địa lý và nhiệm vụ, điều kiện kinh tế - xã hội của từng vùng nhằm phát huy tối đa tiềm năng và khai thác hiệu quả lợi thế sẵn có, khắc phục được các tồn tại, hạn chế của từng vùng và liên kết vùng để thúc đẩy phát triển bền vững của cả quốc gia.
Giai đoạn 2031 - 2050, phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 7,0 - 7,5%/năm. GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2050 đạt khoảng 38.000 USD. Chỉ số phát triển con người đạt trên 0,85.
Quỳnh Nga