Để người dân mạnh dạn sinh con

Để người dân mạnh dạn sinh con
5 giờ trướcBài gốc
Cuối tuần qua, Quốc hội đã thảo luận tổ về dự án Luật Dân số. Giữa nhiều vấn đề đặt ra, câu hỏi lớn nhất vẫn là làm sao để duy trì mức sinh thay thế, tức là luật cần quy định các biện pháp nào để trung bình mỗi cặp vợ chồng sẽ có hai con. Nói cách khác, làm sao để giải quyết tình trạng các cặp vợ chồng ngại sinh con như hiện nay.
Làm sao để đánh tan sự ngần ngại sinh đẻ - câu hỏi này được đặt ra trong bối cảnh Việt Nam đang đối mặt với tình trạng mức sinh thấp. Theo Bộ Y tế, mức sinh trên toàn quốc đang có xu hướng giảm thấp dưới mức sinh thay thế, từ 2,11 con/phụ nữ (năm 2021) xuống 2,01 con/phụ nữ (năm 2022), 1,96 con/phụ nữ (năm 2023) và 1,91 con/phụ nữ (năm 2024) - thấp nhất trong lịch sử và được dự báo tiếp tục xuống thấp trong các năm tiếp theo.
Đây không chỉ là những con số thống kê, nó là hồi chuông cảnh báo. Khi mức sinh xuống thấp, dân số sẽ co lại, chúng ta sẽ đối diện với việc thiếu hụt lực lượng lao động, tốc độ già hóa dân số nhanh, hệ thống an sinh xã hội sẽ chịu áp lực. Nhưng trên tất cả, tình trạng này sẽ tác động rất tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội.
Trước thực trạng ấy, dự thảo Luật Dân số đặt ra ba nhóm biện pháp: (i) Tăng thời gian nghỉ thai sản khi sinh con thứ hai; (ii) hỗ trợ tài chính với phụ nữ dân tộc ít người, phụ nữ sinh đủ hai con trước 35 tuổi, phụ nữ ở địa phương có mức sinh thấp; (iii) ưu tiên mua, thuê mua nhà ở xã hội khi phụ nữ sinh đủ hai con hoặc nam giới có hai con đẻ mà không có vợ hoặc vợ đã chết.
Những chính sách này rõ ràng đã thể hiện sự nỗ lực của Nhà nước trong việc khuyến khích sinh con. Thế nhưng liệu những biện pháp này đã đủ, có thực sự tạo động lực khiến người dân thực sự muốn sinh thêm con?
Việt Nam đang đối mặt với tình trạng mức sinh thấp. Ảnh: THẢO PHƯƠNG
Nói một cách khách quan thì việc sinh con hay không sinh con phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Phải nhìn thẳng vào thực tế rằng thời nay không còn ai quan niệm giản đơn kiểu “trời sinh voi sinh cỏ”. Thay vào đó, nhiều phụ nữ - đặc biệt là ở đô thị - không chỉ nghĩ đến chuyện sinh cho vui nhà vui cửa, cho có nếp có tẻ…, mà họ cân nhắc rất kỹ về điều kiện kinh tế của mình, về chất lượng cuộc sống của họ khi sinh hay không sinh con.
Chúng ta đều hiểu rằng sinh thì dễ, nuôi mới khó. (Thậm chí không hiếm phụ nữ không muốn sinh con chỉ vì ngại mang nặng đẻ đau). Một đứa trẻ ra đời đồng nghĩa với vô vàn chi phí: Nhà ở, y tế, học hành, thậm chí là thời gian và cơ hội thăng tiến nghề nghiệp của cha mẹ. Khi mức sống chưa đủ đảm bảo, khi tiền lương chưa theo kịp giá cả thì việc sinh ít, thậm chí không sinh, là lựa chọn của không ít người.
Từ góc độ chính sách, có thể thấy rằng các biện pháp hỗ trợ tài chính và ưu tiên mua, thuê mua nhà ở xã hội thực sự “chạm” đến nhu cầu cơ bản của người dân. Tuy nhiên, từ “chạm” đến “thực thi” là cả một khoảng cách. Chính sách chỉ có ý nghĩa và có tác dụng khi người dân thực sự tiếp cận được. Câu chuyện mua nhà ở xã hội là ví dụ điển hình. Không ít người, dù đủ điều kiện luật định, vẫn thở dài: “Muốn mua nhà ở xã hội à, đừng mơ nữa!”. Họ không biết bắt đầu từ đâu, tìm dự án nào, thủ tục ra sao. Và dường như nhu cầu thì quá lớn mà khả năng đáp ứng của các dự án nhà ở xã hội thì vẫn chưa nhiều. Đây không chỉ là khoảng cách giữa luật và đời mà còn là khoảng cách giữa ý chí lập pháp và khả năng thực thi và cả hiệu quả trên thực tế.
Vì vậy, bên cạnh việc ban hành luật, điều quan trọng hơn là tổ chức thực thi luật sao cho khả thi, minh bạch và thực sự hướng về người dân. Luật không chỉ nằm trên giấy. Một quy định dù tốt đến đâu nếu không được triển khai hiệu quả thì rất khó để khơi dậy sự tin tưởng và cả động lực để người dân mạnh dạn sinh con.
Nhưng xa hơn, các biện pháp khuyến khích ngắn hạn, bài toán dân số cần gắn liền với chính sách tiền lương, an sinh và giáo dục.
Đại biểu Nguyễn Thiện Nhân (đoàn TP.HCM) đã nói rất thẳng thắn: “Tại Việt Nam, ví dụ ở TP.HCM, mức lương tối thiểu 4,96 triệu đồng hiện chỉ đủ nuôi bản thân, không thể nuôi con”. Một gia đình chỉ có thể yên tâm sinh con khi họ nhìn thấy niềm tin vào tương lai, khi công việc ổn định, thu nhập đủ sống, con cái được học hành tử tế. Nếu thu nhập không đủ bù chi phí sinh hoạt thì dù có thêm bao nhiêu hỗ trợ tài chính cũng chỉ như “muối bỏ bể”.
Tất nhiên tăng lương tối thiểu không phải là chuyện ngày một ngày hai nhưng cần xác định đây là vấn đề quan trọng cần được xem xét, tính toán trong kế hoạch tổng thể của “công tác khuyến sinh”. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần nâng cao chất lượng dịch vụ công: Y tế, giáo dục, chăm sóc trẻ em, phúc lợi xã hội. Một hệ thống nhà trẻ công chất lượng, chi phí hợp lý hay những khu vui chơi bổ ích, an toàn… là những ví dụ “trực quan sinh động” khiến các cặp vợ chồng mạnh dạn thể hiện ước nguyện sớm có con.
Khuyến khích sinh không chỉ là lời kêu gọi mà phải bằng một hệ sinh thái tương tác, hỗ trợ người dân sinh - nuôi - dạy con thật sự hiệu quả. Có như thế thì mới đảm bảo dân đông, nước mạnh, kinh tế phát triển, xã hội phồn vinh, gia đình hạnh phúc.
NGUYỄN QUÝ
Nguồn PLO : https://plo.vn/video/de-nguoi-dan-manh-dan-sinh-con-post877688.html