Để phát triển một nền nông nghiệp xanh

Để phát triển một nền nông nghiệp xanh
3 giờ trướcBài gốc
Từ liên kết truyền thống đến yêu cầu chuyển đổi số
Hơn một thập kỷ qua, nông nghiệp Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định từ 2,5-3,5%/năm, bất chấp nhiều biến động về khí hậu, thị trường và dịch bệnh. Trong bức tranh này có sự đóng góp không nhỏ của khoảng 7.000 chuỗi liên kết ngắn - dài khác nhau, trong đó hơn 4.000 HTX và khoảng 600.000 nông hộ đang tham gia ở nhiều cấp độ. Nhiều mô hình liên kết trong nông nghiệp Việt Nam đã chứng minh hiệu quả rõ rệt. Điển hình như Công ty Trung An xuất khẩu 500.000 tấn gạo sang Nhật Bản với hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử, hay các doanh nghiệp như Nafoods, TH True Milk, ScanPacific đã xây dựng được chuỗi giá trị khép kín, ứng dụng công nghệ số trong sản xuất, chế biến và kiểm soát chất lượng.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Trung Kiên - Trưởng Ban tổ chức, Phó Chủ tịch CLB CEO 1983, CEO CTCP dữ liệu STI Expert chia sẻ: “Chuỗi giá trị truyền thống đã bộc lộ nhiều điểm nghẽn, từ sản xuất truyền thống, liên kết lỏng lẻo. Cần kiến tạo một chuỗi giá trị mới, một cao tốc số minh bạch và hiệu quả, nơi mọi mắt xích, đặc biệt là người nông dân, đều được hưởng lợi một cách công bằng...”.
Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) Lê Đức Thịnh cho rằng, liên kết chuỗi nông nghiệp hiện vẫn tồn tại 4 nút thắt lớn. Thứ nhất, tỷ lệ liên kết còn thấp: trong hơn 20.000 HTX nông nghiệp cả nước, chỉ khoảng 20-25% tham gia liên kết thực chất, phần lớn vẫn dừng ở mối quan hệ mua - bán, chưa có sự chia sẻ rủi ro, lợi ích hay đầu tư chung; vì thế, tình trạng “bẻ kèo”, phá hợp đồng vẫn phổ biến, làm xói mòn niềm tin giữa doanh nghiệp và nông dân. Thứ hai, năng lực của HTX - hạt nhân của chuỗi còn yếu, đa phần quy mô nhỏ, thiếu hạ tầng như kho sấy, bảo quản, logistics nội vùng, thiếu nhân lực quản lý và chiến lược kinh doanh dài hạn, khiến việc thu hút đầu tư khó khăn. Thứ ba, nhiều doanh nghiệp chưa đầu tư vào vùng nguyên liệu ổn định, vẫn duy trì cách làm “đến mùa mới mua”, không tham gia giai đoạn chăm sóc hay canh tác, dẫn đến chất lượng sản phẩm không đồng nhất, khó kiểm soát. Thứ tư, thiếu công cụ số để giám sát, theo dõi và truy xuất thông tin, khiến các chuỗi vẫn vận hành thủ công, không có dữ liệu sản xuất hay hợp đồng điện tử, làm giảm tính minh bạch và niềm tin giữa các bên. “Liên kết chuỗi chỉ dừng ở mua bán, không có dữ liệu và cơ chế chia sẻ thông tin, đồng hành minh bạch và đồng bộ thì không thể bền vững”, ông Thịnh nhấn mạnh.
Từ những điểm nghẽn đó, yêu cầu đặt ra là phải tái cấu trúc chuỗi giá trị nông nghiệp trên nền tảng dữ liệu và công nghệ số bởi nhiều lý do. Đó là áp lực tiêu chuẩn và hội nhập ngày càng gia tăng khi các thị trường lớn như EU, Nhật Bản, Mỹ đồng loạt áp dụng quy định nghiêm ngặt về truy xuất nguồn gốc, chống phá rừng, lao động trẻ em và phát thải carbon. Việc thiếu hạ tầng và nền tảng số khiến nông sản Việt Nam khó vượt qua rào cản kỹ thuật, mất cơ hội tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Cùng với đó, sự thiếu minh bạch dữ liệu và lòng tin giữa doanh nghiệp, HTX và nông dân cũng làm cho các chuỗi liên kết dễ “đứt gãy” khi thị trường biến động, bởi các bên không có cơ sở chung để chia sẻ và đối chiếu thông tin. “Hệ sinh thái số trong nông nghiệp không chỉ là công cụ hỗ trợ, mà là điều kiện bắt buộc để quản lý, kết nối và minh bạch hóa toàn bộ chuỗi giá trị - từ sản xuất, chế biến, tiêu thụ đến tài chính và tín chỉ carbon - hướng tới một nền nông nghiệp hiện đại, xanh và hội nhập quốc tế”, ông Thịnh khẳng định.
Liên kết chuỗi giá trị và hệ sinh thái số là điều kiện sống còn để nông nghiệp Việt Nam cạnh tranh và phát triển bền vững
Nền tảng cho chuỗi giá trị bền vững
Chiến lược tăng trưởng xanh và chuyển đổi số của ngành nông nghiệp đặt mục tiêu đến năm 2030, 80% HTX nông nghiệp hoạt động hiệu quả sẽ ứng dụng nền tảng số và 100% sản phẩm chủ lực quốc gia có hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử. Để hiện thực hóa mục tiêu này, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang triển khai nhiều hoạt động cụ thể về định hướng và giải pháp xây dựng hệ sinh thái số. Như xây dựng nền tảng số dùng chung cho toàn ngành, hợp tác với doanh nghiệp công nghệ Nhật Bản để đến tháng 6/2026 vận hành cơ sở dữ liệu quốc gia về HTX và chuỗi liên kết, cho phép đăng ký, truy cập và khai thác dữ liệu sản xuất, thương mại, tín chỉ carbon minh bạch. Bộ cũng đã trình Chính phủ sửa đổi Nghị định 98/2018/NĐ-CP, bổ sung quy định về “liên kết số”, “hệ sinh thái số nông nghiệp”, chuẩn dữ liệu, chia sẻ thông tin và bảo mật hợp đồng điện tử; đồng thời phối hợp với Bộ Công an đề xuất mã số định danh cho các chủ thể nông nghiệp. Hiện Bộ đang xây dựng hệ thống dữ liệu quốc gia về các chuỗi liên kết, phân loại khoảng 7.000 chuỗi hiện có, gắn mã vùng và tích hợp bản đồ điện tử về vùng nguyên liệu, đối tác, hạ tầng, giúp quản lý hiệu quả và hỗ trợ địa phương phát triển logistics - chế biến.
Song song với đó, Bộ cũng tăng cường đào tạo kỹ năng số cho cán bộ HTX và nông dân, bởi như ông Thịnh nhấn mạnh: “chuyển đổi số không bắt đầu từ phần mềm, mà từ niềm tin, dữ liệu và hành động cụ thể ở từng mắt xích”.
Dữ liệu là tài sản chung, nếu được chuẩn hóa và chia sẻ đúng cách, nó sẽ trở thành “ngôn ngữ chung” giúp các bên hợp tác minh bạch, hiệu quả hơn. Các công cụ như nhật ký điện tử, truy xuất mã vùng, hợp đồng số hay dữ liệu carbon không chỉ mang tính kỹ thuật, mà là bằng chứng minh bạch để doanh nghiệp kiểm soát chất lượng và rủi ro, HTX dễ tiếp cận vốn và chính sách hỗ trợ, còn nông dân được bảo đảm quyền lợi và ghi nhận đóng góp trong chuỗi giá trị. Đặc biệt, khi mỗi nông dân “bấm một click” ghi nhật ký điện tử, khi mỗi HTX có mã số vùng trồng, mỗi doanh nghiệp có dữ liệu carbon, toàn bộ hệ thống nông nghiệp sẽ hình thành chuỗi giá trị số - minh bạch - xanh, đáp ứng yêu cầu thị trường quốc tế và thích ứng biến đổi khí hậu.
Phạm Giang
Nguồn TBNH : https://thoibaonganhang.vn/de-phat-trien-mot-nen-nong-nghiep-xanh-173401.html