Toàn cảnh Diễn đàn. (Ảnh: Vân Chi)
Chiều 24/6, tại Hà Nội, Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức Diễn đàn “Nâng cao vị thế doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi cung ứng năng lượng toàn cầu”. Tham dự Diễn đàn có các chuyên gia, nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu và đại diện các doanh nghiệp ngành năng lượng.
Bài toán của Việt Nam
Trong bối cảnh thế giới bước vào giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ sang nền kinh tế carbon thấp, chuỗi cung ứng năng lượng toàn cầu đang trải qua những thay đổi sâu sắc. Các yếu tố như biến đổi khí hậu, bất ổn địa chính trị, tiến bộ công nghệ và yêu cầu về phát triển bền vững đang tạo ra áp lực buộc các quốc gia và doanh nghiệp phải tái định hình chiến lược năng lượng, trong đó chuỗi cung ứng đóng vai trò cốt lõi.
Với vị trí địa lý chiến lược, đường bờ biển dài, khí hậu nhiệt đới gió mùa với lượng bức xạ mặt trời và tốc độ gió cao, đặc biệt là tại miền Trung và Tây Nguyên, tạo thuận lợi cho Việt Nam phát triển điện mặt trời, điện gió và năng lượng sinh khối - các nguồn đang là trọng tâm trong chiến lược năng lượng toàn cầu. Bên cạnh đó, Việt Nam nằm gần các trung tâm sản xuất năng lượng tái tạo và chuỗi cung ứng thiết bị lớn như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, dễ dàng kết nối với chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm chuyển dịch năng lượng theo hướng bền vững. Nghị quyết số 55-NQ/TW, ngày 11/2/2020, của Bộ Chính trị, “về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, đã xác định các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp về chuyển dịch năng lượng thời gian tới.
Quyết định số 1658/QĐ-TTg, ngày 1/10/2021, của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn năm 2050, cũng đặt ra các mục tiêu phát triển nền kinh tế xanh đến năm 2030 và năm 2050.
Tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc lần thứ 26 (COP26) và COP28, Việt Nam cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 - một thông điệp mạnh mẽ về quyết tâm chuyển đổi xanh. Đặc biệt, Quy hoạch điện VIII (ban hành ngày 26/7/2023) thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong phát triển năng lượng sạch.
Ngoài ra, các chính sách ưu đãi đầu tư, cải cách thủ tục hành chính, cùng việc mở rộng hợp tác quốc tế đang giúp Việt Nam từng bước xây dựng nền công nghiệp năng lượng hiện đại và hội nhập. Đây là những động thái rất rõ ràng và trực tiếp để đảm bảo với các nhà đầu tư nước ngoài rằng Việt Nam cam kết và quyết tâm thực hiện, tạo mọi điều kiện thuận lợi, giảm rủi ro cho các nhà đầu tư, Việt Nam mong muốn thu hút các khoản đầu tư lớn hơn nữa, đầu tư chất lượng hơn trong phát triển xanh, chuyển dịch năng lượng.
Tuy nhiên, dù có tiềm năng lớn, Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều rào cản như: Khung pháp lý chưa ổn định, thiếu nhất quán giữa các cấp quản lý; Hạ tầng lưới điện chưa đáp ứng được tốc độ phát triển của năng lượng tái tạo; Nguồn nhân lực kỹ thuật cao còn thiếu, công nghiệp hỗ trợ yếu; Hệ thống tài chính xanh còn sơ khai, khó tiếp cận nguồn vốn dài hạn.
Bài toán đặt ra đối với Việt Nam hiện nay là để trở thành trung tâm trong chuỗi cung ứng năng lượng toàn cầu, Việt Nam cần định hướng thực hiện một chiến lược phát triển hạn chế phát thải carbon trong dài hạn và trung hòa carbon vào năm 2050 phù hợp với xu thế chung trên thế giới. Bên cạnh những lợi ích về môi trường, chiến lược này có thể đem lại cho Việt Nam một số hiệu quả về kinh tế và tài chính vượt trội so với một lộ trình các-bon cao.
Theo đó, Việt Nam cần xây dựng môi trường đầu tư minh bạch, ổn định; Đẩy mạnh phát triển công nghiệp phụ trợ, logistics và hạ tầng số; Hợp tác sâu hơn với các quốc gia và doanh nghiệp quốc tế trong nghiên cứu, sản xuất và đào tạo; Thúc đẩy tài chính xanh, huy động vốn tư nhân và nguồn lực quốc tế.
Cơ hội nào cho doanh nghiệp?
Chia sẻ tại Diễn đàn, Nguyên Phó Viện trưởng Viện Năng lượng (Bộ Công Thương) TS. Ngô Đức Lâm cho biết, quá trình chuyển dịch năng lượng mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng năng lượng. Để đạt mục tiêu hơn 183.000 MW công suất nguồn điện vào năm 2030 và xây dựng hệ thống truyền tải tương ứng, Việt Nam cần khoảng 200 tỷ USD đầu tư trong 10 năm tới - tức trung bình 20 tỷ USD/năm.
Với quy mô đầu tư lớn, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không thể gánh vác một mình. Việc xã hội hóa đầu tư là tất yếu, tạo cơ hội cho các tập đoàn dầu khí, than, cũng như các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia cạnh tranh trong chuỗi giá trị.
Đặc điểm phân tán của năng lượng tái tạo (quy mô nhà máy nhỏ, vốn đầu tư thấp, thời gian xây dựng nhanh) phù hợp với khả năng tài chính và tổ chức của nhiều doanh nghiệp trong nước. Điều này tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoặc liên doanh với địa phương tham gia vào các khâu đầu tư, xây dựng, vận hành, cung cấp thiết bị và dịch vụ kỹ thuật.
Về mặt pháp lý, nhà nước đã xác định rõ chủ trương xã hội hóa ngành năng lượng, chống độc quyền, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia. Nghị quyết 55-NQ/TW của Bộ Chính trị (năm 2020) là "chìa khóa" mở đường cho chiến lược phát triển năng lượng quốc gia, trong đó nhấn mạnh vai trò chủ lực của khu vực tư nhân trong đầu tư và vận hành hệ thống năng lượng.
Cùng với đó, các chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân cũng không ngừng được ban hành, tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi, là nền tảng để doanh nghiệp Việt tích cực tham gia vào chuỗi cung ứng năng lượng.
Theo lộ trình, thị trường điện lực Việt Nam sẽ vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Hiện nay, thị trường điện đã chuyển sang giai đoạn bán buôn cạnh tranh và đang chuẩn bị bước vào giai đoạn bán lẻ cạnh tranh - mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia sâu vào khâu phân phối, mua bán điện và cạnh tranh sòng phẳng như nhiều quốc gia phát triển đang áp dụng.
Dù cơ hội lớn, nhưng ông Lâm cho hay, vẫn còn nhiều rào cản khiến doanh nghiệp gặp khó khi tham gia chuỗi cung ứng năng lượng. Năng lực tham gia của doanh nghiệp Việt Nam vào chuỗi cung ứng năng lượng toàn cầu vẫn còn khá hạn chế. Phần lớn mới chỉ dừng lại ở khâu lắp ráp, gia công, chưa làm chủ được công nghệ cốt lõi như sản xuất pin năng lượng mặt trời, hệ thống lưu trữ điện hay công nghệ turbine gió. Nguồn nhân lực chất lượng cao cũng đang thiếu hụt; công nghiệp phụ trợ yếu; khung pháp lý và chính sách đôi khi chưa nhất quán…
Theo PGS.TS. Ngô Trí Long - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả, Bộ Tài chính, để doanh nghiệp năng lượng có thể thực sự phát huy vai trò, cần có một hệ thống chính sách tài chính đồng bộ, hiệu quả nhằm hỗ trợ tiếp cận vốn, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh và thích ứng với những biến động của thị trường năng lượng toàn cầu.
Vai trò của doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng năng lượng (cả truyền thống và tái tạo): Doanh nghiệp là trung tâm của chuỗi cung ứng năng lượng. Trong cấu trúc của chuỗi giá trị năng lượng – từ khai thác, sản xuất, truyền tải, phân phối đến tiêu thụ – doanh nghiệp đóng vai trò then chốt ở tất cả các mắt xích.
PGS.TS. Ngô Trí Long - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả, Bộ Tài chính chia sẻ tại Diễn đàn. (Ảnh: Vân Chi)
Việc doanh nghiệp trở thành trung tâm trong chuỗi cung ứng không chỉ giúp đảm bảo an ninh năng lượng, mà còn thúc đẩy hiệu quả vận hành, sáng tạo mô hình kinh doanh mới (như mô hình điện áp mái bán điện lên lưới, lưu trữ phân tán...).
Nhu cầu hỗ trợ tài chính là tất yếu để doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh: Đầu tư vào năng lượng – đặc biệt là năng lượng tái tạo – đòi hỏi nguồn vốn lớn, thời gian thu hồi dài và chịu rủi ro biến động chính sách. Do đó, hỗ trợ tài chính từ Nhà nước và các định chế tài chính là rất cần thiết. Cụ thể theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Báo cáo 2024), nhu cầu vốn đầu tư cho chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam giai đoạn 2021–2030 ước tính lên đến 134,7 tỷ USD, trong đó 70% đến từ khu vực tư nhân.
Tuy nhiên, chỉ khoảng 15–20% doanh nghiệp trong ngành năng lượng tiếp cận được tín dụng ưu đãi, do thiếu cơ chế bảo lãnh, rủi ro doanh thu từ chính sách giá điện (theo Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp - VCCI, 2024). Do đó, cần có hệ sinh thái tài chính xanh gồm tín dụng ưu đãi, bảo lãnh vay vốn, hỗ trợ bảo hiểm rủi ro, hoặc phát hành trái phiếu xanh để tạo dòng vốn bền vững cho khu vực doanh nghiệp.
Một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay là phải khẩn trương xây dựng và triển khai Chiến lược tài chính xanh quốc gia theo hướng toàn diện và khả thi, nhằm tạo khuôn khổ pháp lý rõ ràng cho các hoạt động đầu tư xanh.
PGS.TS. Ngô Trí Long cho rằng, chiến lược này cần đảm bảo các nguyên tắc: Đồng bộ giữa chính sách tài khóa và tiền tệ, đặc biệt là phối hợp trong phát hành trái phiếu xanh, ưu đãi thuế và tín dụng xanh; Thực chất trong hỗ trợ khu vực doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thông qua các công cụ như bảo lãnh tín dụng, trợ cấp lãi suất, hay mô hình hợp tác công - tư (PPP) hiệu quả; Hướng đến kết quả đo lường được, bằng việc xây dựng bộ chỉ số tài chính xanh, cơ chế theo dõi - đánh giá minh bạch và tiêu chuẩn hóa các sản phẩm tài chính thân thiện môi trường.
Ông Long gợi ý, Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm quốc tế tiêu biểu tại các nước như: Đức- Vận hành Quỹ Khí hậu & Chuyển đổi (KTF) với quy mô hơn 200 tỷ Euro hỗ trợ vay ưu đãi cho doanh nghiệp năng lượng tái tạo; Hàn Quốc- Thiết lập các ngân hàng phát triển xanh cung cấp tài chính dài hạn; Trung Quốc – Green Credit Guidelines (Hướng dẫn Tín dụng Xanh); Singapore – Chương trình trợ cấp chuyển đổi năng lượng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs).
Theo các chuyên gia tại Diễn đàn, để doanh nghiệp Việt Nam thực sự có vị thế trong chuỗi cung ứng năng lượng, cần tập trung vào hoàn thiện thể chế, môi trường đầu tư. Theo đó, chính sách phải đi trước, bảo đảm sự đồng bộ giữa Trung ương và địa phương, giữa ngành năng lượng với tài chính, đất đai, môi trường, lao động…
Bên cạnh đó, doanh nghiệp Việt cũng cần được hỗ trợ về công nghệ, tài chính và hợp tác quốc tế để tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị. Chính phủ cần có chính sách khuyến khích nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và phát triển sản phẩm “Make in Vietnam” cho ngành năng lượng tái tạo.
Việc đào tạo đội ngũ kỹ sư, chuyên gia kỹ thuật chất lượng cao cũng là yêu cầu cấp bách. Song song đó là thúc đẩy các cơ chế tài chính xanh, huy động vốn tư nhân, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn tín dụng dài hạn, lãi suất ưu đãi cho các dự án xanh.
Cùng với đó, các chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân cũng không ngừng được ban hành, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, là nền tảng để doanh nghiệp Việt tích cực tham gia vào chuỗi cung ứng năng lượng.
Vân Chi