Trình bày tờ trình tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan cho biết, chương trình có mục tiêu tổng quát nhằm nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của Nhân dân; bảo đảm mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe ban đầu chất lượng, người dân chủ động tự chăm sóc và nâng cao sức khỏe; hạn chế bệnh tật, được phòng bệnh từ sớm, từ xa, ngay tại cơ sở.
Đồng thời, giải quyết các vấn đề dân số ưu tiên, chủ động thích ứng với già hóa, nâng cao chất lượng dân số; tăng cường chăm sóc cho các nhóm yếu thế góp phần xây dựng một nước Việt Nam khỏe mạnh, thịnh vượng trong kỷ nguyên mới.
Chương trình đề ra 10 mục tiêu cụ thể, trong đó có góp phần nâng tỷ lệ xã, phường, đặc khu đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã là 90% vào năm 2030 và đạt 95% đến năm 2035.
Tỷ lệ người dân được lập sổ sức khỏe điện tử và quản lý sức khỏe theo vòng đời đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035. Tỷ lệ trạm y tế xã, phường, đặc khu trên toàn quốc triển khai thực hiện dự phòng, quản lý, điều trị một số bệnh không lây nhiễm đầy đủ theo quy trình được hướng dẫn đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi đến năm 2030 giảm xuống dưới 15% và đến năm 2035 giảm xuống dưới 13%. Tỷ lệ người dân được tiếp cận với ít nhất 1 kênh thông tin đại chúng chính thống về chăm sóc sức khỏe ban đầu, phòng bệnh, nâng cao sức khỏe đạt 50% vào năm 2030 và đạt 80% vào năm 2035…
Chương trình có đối tượng thụ hưởng là toàn bộ người dân Việt Nam, trong đó ưu tiên các đối tượng: người sống ở khu vực khó khăn, miền núi, biên giới, biển đảo; người yếu thế; bà mẹ, trẻ em; thanh thiếu niên; các cặp vợ chồng, cá nhân trong độ tuổi sinh đẻ; người có công với cách mạng; người cao tuổi; người di cư, lao động ở các khu công nghiệp. Địa điểm thực hiện Chương trình là: Các tỉnh/thành phố trong cả nước, ưu tiên khu vực khó khăn, miền núi, biên giới, biển đảo.
Về nguồn vốn và thời gian thực hiện, tổng vốn thực hiện toàn giai đoạn 2026 – 2035 là 125.478 tỷ đồng. Thời gian thực hiện là 10 năm, từ năm 2026 đến hết năm 2035, chia làm 2 giai đoạn (2026 - 2030 và 2031 – 2035).
Trình bày báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội Nguyễn Đắc Vinh cho biết, Ủy ban tán thành sự cần thiết xây dựng Chương trình để thể chế hóa chủ trương của Đảng nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, thực hiện tốt công tác dân số và phát triển; Chương trình đáp ứng các yêu cầu về điều kiện quyết định chủ trương đầu tư theo quy định tại Điều 19 Luật Đầu tư công.
Quang cảnh phiên họp.
Hồ sơ Chương trình bảo đảm theo quy định. Ủy ban đề nghị Chính phủ tiếp tục rà soát Chương trình với các Chương trình mục tiêu quốc gia đang được Quốc hội xem xét, phê duyệt chủ trương đầu tư để bảo đảm không trùng lắp hoạt động, chồng chéo nhiệm vụ; hoàn thiện dự thảo Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình.
Về một số nội dung cụ thể, Ủy ban cơ bản tán thành với tên gọi, đối tượng thụ hưởng, tổng mức đầu tư giai đoạn 2026-2035, mục tiêu và các dự án thành phần của Chương trình theo đề xuất của Chính phủ.
Cơ quan thẩm tra đề nghị Chính phủ lưu ý một số nội dung. Trong đó, về đối tượng thụ hưởng của Chương trình, đề nghị nghiên cứu bổ sung đối tượng ưu tiên là người khuyết tật; đồng thời chỉnh lý quy định về đối tượng ưu tiên theo hướng để Chính phủ quy định chi tiết bảo đảm thể chế hóa đầy đủ theo tinh thần Nghị quyết số 72 và thuận tiện trong triển khai thực hiện.
Về tổng vốn thực hiện Chương trình, Cơ quan thẩm tra đề nghị Chính phủ xác định rõ nguồn vốn, bảo đảm bố trí đủ nguồn vốn tối thiểu; bảo đảm cân đối vốn hợp lý trong thực hiện 02 mục tiêu quan trọng của Chương trình là chăm sóc sức khỏe và dân số và phát triển (mức đầu tư cho các nội dung về dân số và phát triển dự kiến chỉ chiếm tỷ lệ 15,5% so với tổng mức đầu tư giai đoạn 2026 - 2030); đánh giá sát khả năng huy động nguồn vốn ngân sách địa phương và tính toán đề xuất mức bố trí vốn ngân sách địa phương phù hợp hơn với tình hình thực tiễn, nhất là với địa phương khó khăn trong bố trí vốn đối ứng.
Tiếp tục đánh giá, có giải pháp huy động các nguồn lực xã hội hóa, giảm áp lực cho ngân sách nhà nước, thể chế hóa yêu cầu của Kết luận số 149 và Nghị quyết số 72 của Bộ Chính trị; rà soát, không bố trí vốn các nội dung hoạt động tại các tiểu dự án đã được bảo đảm bằng nguồn kinh phí thường xuyên.
Minh Khôi