Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn phát biểu tại phiên họp. (Ảnh: DUY LINH)
Chiều tối 17/11, thực hiện chương trình Phiên họp thứ 51, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035.
Phấn đấu đến năm 2030 đạt được bốn nhóm mục tiêu lớn
Trình bày tờ trình của Chính phủ, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn cho biết, giáo dục Việt Nam thời gian qua đã đạt nhiều thành tựu quan trọng như mở rộng quy mô mạng lưới trường lớp, hoàn thành phổ cập giáo dục, duy trì chất lượng giáo dục mũi nhọn, nâng cao trình độ đội ngũ nhà giáo...
Tuy nhiên, chất lượng giáo dục nhìn chung chưa tạo được đột phá, nhất là trong các ngành khoa học-công nghệ, các lĩnh vực then chốt mới nổi, và chưa đáp ứng yêu cầu về nhân lực chất lượng cao cho giai đoạn phát triển mới. Chính vì vậy, cần đẩy mạnh đầu tư để tạo những bước đột phá về giáo dục trong giai đoạn tới.
Theo đó, Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo phấn đấu đến năm 2030 đạt bốn nhóm mục tiêu lớn là: chuẩn hóa hệ thống trường lớp; đầu tư trọng điểm cho 18 trường cao đẳng nghề để hình thành trung tâm đào tạo nhân lực kỹ năng cao; nâng cấp hệ thống giáo dục đại học, phấn đấu có cơ sở lọt top 100 đại học hàng đầu thế giới ở một số lĩnh vực; nâng cao năng lực đội ngũ nhà giáo, thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển toàn diện người học.
Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn. (Ảnh: DUY LINH)
Đáng chú ý, Chính phủ cũng đặt mục tiêu đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học, với tối thiểu 30% cơ sở giáo dục phổ thông có giáo viên đủ năng lực dạy các môn khoa học tự nhiên bằng tiếng Anh. Đồng thời, chương trình sẽ thí điểm và nhân rộng mô hình “trường học thông minh”, ứng dụng AI và công nghệ số.
Đến năm 2035, toàn bộ cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông phải đạt chuẩn cơ sở vật chất; mạng lưới giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học được hoàn thiện; hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp tại các trường đại học.
Theo dự kiến, chương trình sẽ được thực hiện theo 5 dự án thành phần, với tổng kinh phí thực hiện chương trình giai đoạn 2026-2035 khoảng 580.133 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương chiếm 60%, ngân sách địa phương gần 20%, còn lại là vốn đối ứng và huy động hợp pháp khác. Giai đoạn 2026-2030, Chính phủ đề nghị bố trí tối thiểu 174.673 tỷ đồng; giai đoạn 2031-2035 dự kiến hơn 405 nghìn tỷ đồng.
Việc huy động nguồn lực cần tính toán sát thực tế để tránh dàn trải
Qua thẩm tra, Thường trực Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội cơ bản tán thành với sự cần thiết đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035, đồng thời nêu nhiều vấn đề cần làm rõ để bảo đảm tính khả thi, tránh trùng lặp và nâng cao hiệu quả triển khai.
Theo Thường trực Ủy ban, nhiều mục tiêu cụ thể trong chương trình được đánh giá là tham vọng, trong đó đáng chú ý là chỉ tiêu 30% cơ sở giáo dục thực hiện dạy học bằng tiếng Anh vào năm 2030 và 100% vào năm 2035. Thường trực Ủy ban đề nghị Chính phủ tính toán kỹ lưỡng tính khả thi, nhất là về cơ sở vật chất, nguồn giáo viên đạt chuẩn và năng lực đào tạo.
Bên cạnh đó, các mục tiêu về cơ sở vật chất cần được xây dựng theo tiêu chí kiên cố hóa phòng học, đạt chuẩn Bộ Giáo dục và Đào tạo và trang bị đủ thiết bị dạy học tối thiểu. Về đội ngũ và người học, Ủy ban đề nghị có chỉ tiêu cụ thể về số lượng nhà giáo, cán bộ quản lý được đào tạo ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước, nhằm hướng tới chất lượng và chuẩn hóa theo thông lệ quốc tế.
Quang cảnh phiên họp. (Ảnh: DUY LINH)
Đối với nguồn vốn ngân sách trung ương, cơ quan thẩm tra nhấn mạnh yêu cầu ưu tiên trọng tâm, trọng điểm và bám sát khả năng giải ngân. Việc huy động nguồn lực cần tính toán sát thực tế để tránh dàn trải.
Nguồn vốn đối ứng từ ngân sách địa phương được đề nghị làm rõ căn cứ xác định tỷ lệ, cơ cấu, đồng thời khuyến khích các địa phương có điều kiện kinh tế tốt chủ động tăng đầu tư cho giáo dục.
Một trong những vấn đề được Thường trực Ủy ban quan tâm là đề xuất mức vốn đối ứng rất lớn từ các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và đại học, được nhận định “chưa hợp lý”, cần làm rõ cơ sở tính toán. Tương tự, nguồn vốn huy động hợp pháp khác cũng cần được chứng minh về tính khả thi để giảm áp lực ngân sách.
Thường trực Ủy ban cũng đề nghị bảo đảm các dự án thành phần tuân thủ đúng nguyên tắc của Luật Đầu tư công: Không trùng lặp nhiệm vụ, không lấn sang nội dung của chương trình khác và không bao gồm nhiệm vụ chi thường xuyên. Việc thiết kế dự án phải rõ mạch, tránh phân tán nguồn lực.
Bảo đảm tính khả thi với mức đầu tư lớn
Cho ý kiến vào chủ trương đầu tư Chương trình, các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đều đánh giá, kỳ họp Quốc hội lần này có dấu ấn đặc biệt, khi cùng lúc Quốc hội xem xét hai nghị quyết đặc thù, nhiều dự án luật sửa đổi quan trọng và hai chương trình mục tiêu quốc gia, tất cả đều liên quan trực tiếp đến công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục.
Tuy nhiên, từ chính sách đến thực tiễn, cơ quan soạn thảo cần phải có những tính toán hết sức chặt chẽ, cụ thể để bảo đảm tính khả thi của chính sách.
Theo Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định, việc thiết kế chính sách phải đồng bộ, phân định rạch ròi giữa quy định đưa vào luật, nghị quyết đặc thù và nội dung dành cho chương trình mục tiêu quốc gia. Chương trình mục tiêu quốc gia phải là những nhiệm vụ thật sự lớn, có tính đột phá, những vấn đề mà “nếu chỉ dựa vào ngân sách thường xuyên thì không làm được”.
Về nguồn lực, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định bày tỏ sự trăn trở về tính khả thi, đề nghị khoản hơn 500 nghìn tỷ đồng cần xem xét đưa ra ngoài mức 20% tối thiểu chi ngân sách cho giáo dục để bảo đảm thực chất, tránh hình thức.
Về nội dung, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định chỉ rõ ba nhóm đột phá mà chương trình cần tập trung là: Cơ sở vật chất, khoa học - công nghệ - chuyển đổi số, và ngoại ngữ. Tuy nhiên, Phó Chủ tịch Quốc hội cũng đề cập sự thiếu vắng một số nội dung cốt lõi như giáo dục lao động, kỹ năng sống, nghệ thuật và thể thao - những yếu tố góp phần hình thành nhân cách toàn diện.
Cho ý kiến vào dự thảo chính sách, Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương đặc biệt nhấn mạnh là sự tham gia của đầu tư tư nhân. Theo Phó Chủ tịch Quốc hội, chương trình mới chỉ tập trung vào đầu tư công mà hoàn toàn chưa thể hiện tinh thần lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư như chủ trương chung của Đảng và Nhà nước. "Nếu chương trình đặt mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục cả công và tư, nhưng lại chỉ chi cho khối công lập, thì tên của chương trình đúng hay chưa?", Phó Chủ tịch Quốc hội đặt câu hỏi.
Ở góc độ kết nối giữa hai Nghị quyết trọng điểm là Nghị quyết 71 và Nghị quyết 72 của Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan phân tích sâu về dinh dưỡng học đường và tâm lý học đường là hai vấn đề thường bị xem nhẹ nhưng tác động mạnh đến sự phát triển toàn diện của học sinh.
Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan nhấn mạnh: “Nếu dinh dưỡng đúng thì sẽ phát triển cả thể xác và trí tuệ”, đồng thời cảnh báo tình trạng đấu thầu bếp ăn và nguy cơ ngộ độc thực phẩm. Với tâm lý học đường, Phó Chủ tịch Quốc hội đề nghị phải có lực lượng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt hỗ trợ các em đến từ gia đình gặp biến cố.
Phó Chủ tịch Quốc hội Đỗ Văn Chiến. (Ảnh: DUY LINH)
Từ góc độ thực thi, Phó Chủ tịch Quốc hội Đỗ Văn Chiến cho rằng việc thiết kế chương trình không được để “lọt đối tượng”, nhất là khu vực dân tộc thiểu số, miền núi, nơi điểm xuất phát thấp. Bên cạnh đó, cần có tiêu chí phân bổ vốn đối ứng phù hợp để không tạo áp lực cho các tỉnh khó khăn, tránh tình trạng nơi cần nhất lại không thể triển khai vì thiếu khả năng đối ứng.
Kết luận phiên thảo luận, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn ghi nhận và đánh giá cao các ý kiến, đồng thời nhấn mạnh chương trình phải có tầm nhìn dài hạn, dự báo xu hướng phát triển của thị trường lao động, yêu cầu kỹ năng số, kỹ năng mềm của thế hệ mới.
Bên cạnh đó, Chủ tịch Quốc hội bày tỏ sự lo ngại về tính khả thi của nguồn lực thực hiện mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đề xuất; yêu cầu tập trung đầu tư vào những khu vực yếu nhất: vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số, giáo dục mầm non, giáo dục đại học và các lĩnh vực liên quan đến chuyển đổi số.
VĂN TOẢN