Người phạm tội là cấp dưới được miễn hình phạt trong trường hợp nào?
TAND Tối cao đang lấy ý kiến đối với Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự trong xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ. Một trong những nội dung đáng chú ý của dự thảo là việc tòa đã có những hướng dẫn cụ thể về các trường hợp áp dụng chính sách khoan hồng đặc biệt miễn hình phạt và điều kiện để một người không bị xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự.
Cụ thể, theo Khoản 1 Điều 5 Dự thảo quy định việc xử lý tội phạm tham nhũng, tội phạm khác về chức vụ phải bảo đảm nghiêm khắc và tuân thủ triệt để các nguyên tắc của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự.
Còn tại khoản 2 điều này quy định, trong quá trình tố tụng, người phạm tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và đã hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn thì không áp dụng mức cao nhất của khung hình phạt mà người phạm tội bị truy tố, xét xử.
Trụ sở TAND Tối cao.
Khoản 3 Điều 5 dự thảo Nghị quyết cũng nêu rõ xem xét áp dụng chính sách khoan hồng đặc biệt miễn hình phạt theo quy định tại Điều 59 BLHS đối với trường hợp người phạm tội có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS hoặc người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể nếu thuộc một trong bốn trường hợp sau:
Người phạm tội không vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, mà chỉ vì muốn đổi mới, dám đột phá vì sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Người phạm tội là người có quan hệ lệ thuộc (như cấp dưới đối với cấp trên, người làm công hưởng lương, chấp hành nhiệm vụ theo chỉ đạo của cấp trên), không ý thức được đầy đủ hành vi phạm tội của mình, không vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, không được hưởng lợi; đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, góp phần có hiệu quả vào việc điều tra, xử lý tội phạm.
Người phạm tội đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, góp phần hạn chế thiệt hại, chủ động nộp lại toàn bộ tài sản chiếm đoạt, đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình gây ra.
Người phạm tội sau khi bị phát hiện đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chủ động nộp lại toàn bộ tài sản chiếm đoạt, đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình gây ra.
3 điều kiện để được xem xét không truy cứu trách nhiệm hình sự
Đáng chú ý, khoản 4 Điều 5 Dự thảo đưa ra một điều khoản hoàn toàn mới đó là hướng dẫn về điều kiện để một người không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Theo đó, TAND Tối cao đề xuất xem xét không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội khi có đủ 3 điều kiện như sau:
Thực hiện hành vi phạm tội nhưng vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh mà không có khiếu nại, tố cáo hoặc đã giải quyết dứt điểm các khiếu nại, tố cáo liên quan theo quy định.
Không tham nhũng, không gây thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước, hoặc có gây thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước nhưng đã khắc phục toàn bộ hậu quả.
Dự án, công trình có sai phạm đã được hoàn thành, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cho địa phương, đất nước.
Hoàng An