Chúng ta thấy gì qua đợt quyên góp ủng hộ nhân dân Cuba vừa qua? Chỉ trong một cuộc vận động rất ngắn, đã có thể huy động được hơn 15 triệu USD cho một mục tiêu có ý nghĩa dù rất đông những người đóng góp hoàn toàn vô danh.
Việt Nam hiện nay chưa có Quỹ giáo dục quốc gia, nhưng đã đến lúc chúng ta cần nghĩ tới một quỹ như vậy, nơi có thể huy động sức mạnh toàn dân nhằm thực hiện hoài bão lớn của cả một dân tộc, trong đó có giáo dục.
Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị ban hành đưa ra tầm nhìn của quốc gia về giáo dục trong đó có các mục tiêu như “Việt Nam có hệ thống giáo dục quốc dân hiện đại, công bằng và chất lượng, đứng vào nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới” và đến năm 2045 “Phấn đấu ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực theo các bảng xếp hạng quốc tế uy tín”. Những mục tiêu này thoạt nghe có vẻ khó khăn với cơ sở giáo dục đại học hiện tại của Việt Nam nhưng sẽ hợp lý nếu chúng ta biết các tổ chức quốc tế dự báo Việt Nam sẽ trở thành nền kinh tế top 20 thế giới về quy mô GDP vào năm 2045.
100 năm sau ngày lập nước (1945 – 2045), sẽ là rất thiệt thòi nếu thanh niên của Việt Nam không có điều kiện học tập trong một số trường đại học top 100 thế giới ngay trên quê hương mình và có cơ hội đóng góp vào sự phát triển của chính đất nước mình. Số lượng du học sinh của Việt Nam tăng lên mỗi năm, hiện vào khoảng 250 ngàn bao gồm trung học phổ thông, đại học và sau đại học [1]. Trong khi đó, Việt Nam cần hàng triệu sinh viên có năng lực nghiên cứu, sáng tạo, khởi nghiệp… mỗi năm, do vậy chắc chắn các đại học “trên sân nhà” vẫn là nguồn cung cấp lực lượng lao động trình độ cao, nguồn chất xám chủ yếu cho phát triển kinh tế, phát triển đất nước.
Chuyên gia giáo dục Bùi Khánh Nguyên
Gần đây tôi có cơ hội ghé thăm một đại học top 10 trong nước. Nhưng trái với hình dung của tôi, bữa ăn của một sinh viên hiện nay không khác mấy bữa ăn đơn sơ mà tôi được cung cấp vào năm 1993 trong một trường chuyên nội trú. Em sinh viên mảnh khảnh cao 1m60 ngồi trước mặt tôi với đôi mắt ngời sáng khi nói về tương lai, nhưng tôi biết điều kiện ăn ở, học hành của em khác quá xa so với các bạn sinh viên trong một đại học trung bình ở Mỹ, Malaysia hay Đài Loan (Trung Quốc).
Trong khi đó thì tôi biết một số doanh nhân Việt Nam muốn đóng góp vào giáo dục nên đã mở ra đại học, và không thành công. Điểm mạnh duy nhất là họ có khả năng xây dựng được những giảng đường với cơ sở vật chất rất hiện đại trị giá hàng ngàn tỷ đồng.
Giả sử chúng ta có một Quỹ giáo dục quốc gia chung, những doanh nhân ấy không cần phải nhọc công mày mò xây dựng một đại học từ đầu, mà có thể chỉ cần đóng góp thẳng vào các khoa, các trường có tiềm năng mở rộng năng lực đào tạo nhân tài cho đất nước. Khi đó rất có thể chúng ta đã có những trường đại học lần lượt cất cánh để “nhảy” từ nhóm 1.000 vào nhóm 500, 200 rồi 100 các các đại học tốt nhất thế giới.
Vấn đề lớn của chúng ta là không có đủ nguồn lực để đầu tư vào các đại học top 10, nơi giải quyết việc học cho vài trăm ngàn sinh viên mỗi năm. Nếu chúng ta đều thống nhất rằng việc tạo ra các đại học có năng lực cạnh tranh toàn cầu ngay trong nước là cần thiết, thì việc huy động nguồn lực toàn dân để xây dựng những đại học như vậy là việc rất nên làm. Nếu có một quỹ chung, mở cho tất cả mọi người đóng góp, từ 1 ngàn đồng đến cả hàng triệu USD, thì chắc chắn chúng ta sẽ có được nơi đào tạo nguồn lao động, nguồn chất xám, những tài năng ngay tại chỗ đủ sức biến tiềm năng của đất nước thành cơ hội phát triển.
Phát triển kinh tế trong những thập kỷ tới chắc chắn phải dựa vào khoa học công nghệ, mà để có được lực lượng nhân sự, nhân tài trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ thì bắt buộc phải có các đại học hiện đại, có năng lực nghiên cứu hàng đầu. Và để có được số lượng lớn thì phải là những đại học ngay tại chỗ chứ không chỉ trông chờ vào nguồn du học sinh, vốn là nhóm hạn chế về số lượng cũng như cam kết với cơ hội ngay tại chỗ ở Việt Nam.
Rất mong Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét việc thành lập Quỹ giáo dục quốc gia, hoặc thiết lập cơ chế Quỹ giáo dục tại các trường đại học với mục tiêu, chương trình hành động minh bạch của quỹ. Từ đó, người dân toàn quốc, từ những người lao động bình thường tới những mạnh thường quân, nhà hảo tâm, các tỷ phú, thậm chí các tổ chức phát triển khác ở trong và ngoài nước có thể đóng góp theo khả năng và ước nguyện của mình để đất nước có đủ nguồn lực thực hiện những mục tiêu giáo dục lớn tầm quốc gia, mang lại sự thịnh vượng cho đất nước và mỗi người dân trong tầm nhìn hướng tới những năm 2045 – 2050 khi Việt Nam bước vào nhóm các quốc gia phát triển của thế giới.
(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.
Bùi Khánh Nguyên