Người dân thực hiện thủ tục hành chính lĩnh vực tư pháp tại xã Thuận An, TP Hà Nội. Ảnh: Minh Ngọc
Tình trạng quá tải trong tiếp nhận và giải quyết yêu cầu chứng thực
Bộ Tư pháp vừa có tờ trình dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 07/2025/NĐ-CP ngày 09/01/2025 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định trong lĩnh vực hộ tịch, quốc tịch, chứng thực.
Theo Bộ Tư pháp, ngày 16/6/2025, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua 34 Nghị quyết về sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã của 34 tỉnh, thành phố trên cả nước, theo đó, sau khi sắp xếp cả nước giảm từ 10.035 đơn vị hành chính cấp xã còn 3.321 đơn vị hành chính cấp xã, đa số các đơn vị hành chính cấp xã sau khi sắp xếp đều có quy mô lớn hơn đơn vị hành chính cấp xã trước khi sắp xếp.
Việc sắp xếp tổ chức chính quyền địa phương theo mô hình 2 cấp và việc phát triển quy mô đơn vị hành chính cấp xã đã dẫn đến khối lượng công việc chứng thực thực hiện tại UBND cấp xã ngày càng tăng. Thực tiễn tại nhiều địa phương cho thấy tình trạng quá tải trong tiếp nhận và giải quyết yêu cầu chứng thực, nhất là tại các đơn vị hành chính cấp xã có quy mô dân số lớn.
Theo số liệu thống kê, trong năm 2024, tại các Phòng Tư pháp trên cả nước thực hiện chứng thực bản sao đối với 1.994.901 bản; chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản, chứng thực chữ ký người dịch và chứng thực hợp đồng, giao dịch đối với 1.321.947 việc; tại các UBND cấp xã trên cả nước chứng thực bản sao đối với 46.385.220 bản; chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản và chứng thực hợp đồng, giao dịch đối với 6.406.300 việc. Trong 6 tháng đầu năm 2025, tại các Phòng Tư pháp trên cả nước thực hiện chứng thực bản sao đối với 886.445 bản; chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản, chứng thực chữ ký người dịch và chứng thực hợp đồng, giao dịch đối với 672.708 việc; tại các UBND cấp xã trên cả nước chứng thực bản sao đối với 20.365.770 bản; chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản và chứng thực hợp đồng, giao dịch đối với 3.111.413 việc.
Trong bối cảnh đó, nhiều địa phương đã có kiến nghị, đề xuất về việc Chủ tịch UBND cấp xã được ủy quyền thực hiện chứng thực để giảm tải công việc cho Chủ tịch UBND cấp xã. Để thực hiện việc ủy quyền trong hoạt động chứng thực theo quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 4158/BTP-BTTP ngày 11/7/2025 hướng dẫn các địa phương về một số vướng mắc trong lĩnh vực chứng thực.
Tuy nhiên, để đảm bảo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất cho hoạt động chứng thực thì cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số quy định tại Nghị định số 23/2015/NĐ-CP.
Mở rộng đối tượng thực hiện chứng thực
Từ cơ sở nêu trên, Bộ Tư pháp kiến nghị sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng đối tượng thực hiện chứng thực. Theo đó, người thực hiện chứng thực là Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND xã, phường, đặc khu (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp xã); Chánh Văn phòng, Phó Chánh Văn phòng Hội đồng nhân dân và UBND cấp xã; Giám đốc, Phó Giám đốc Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp xã; công chức được Chủ tịch UBND cấp xã ủy quyền; công chứng viên của Phòng công chứng, Văn phòng công chứng (sau đây gọi là tổ chức hành nghề công chứng); viên chức ngoại giao, viên chức lãnh sự của Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự và Cơ quan khác được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài (sau đây gọi là Cơ quan đại diện)”.
Về thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực, sửa đổi thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực từ tập thể (UBND cấp xã) thành cá nhân (Chủ tịch UBND cấp xã).
Quy định cụ thể việc thực hiện chứng thực và sử dụng con dấu, việc ủy quyền như sau: chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã, công chức được Chủ tịch UBND cấp xã ủy quyền thực hiện chứng thực và sử dụng con dấu của UBND cấp xã. Công chức được ủy quyền phải có bằng cử nhân luật và có từ 2 năm công tác trở lên trong lĩnh vực tư pháp. Chủ tịch UBND cấp xã có thể ủy quyền toàn bộ hoặc một số nhiệm vụ chứng thực theo quy định tại khoản này.
Chánh Văn phòng, Phó Chánh Văn phòng Hội đồng Nhân dân và UBND thực hiện ký chứng thực và đóng dấu của Văn phòng Hội đồng Nhân dân và UBND.
Giám đốc, Phó Giám đốc Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp xã thực hiện ký chứng thực và đóng dấu của Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp xã.
Việc sửa đổi, bổ sung quy định nêu trên nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng tại Kết luận 179-KL/TW; tạo điều kiện thuận lợi cho người yêu cầu chứng thực; giảm tải công việc cho Chủ tịch UBND cấp xã.
Đồng thời, dự thảo cũng sửa đổi phạm vi thực hiện một số giao dịch liên quan đến quyền của người sử dụng đất, nhà ở, bất động sản theo hướng việc chứng thực các giao dịch liên quan đến quyền của người sử dụng đất được thực hiện tại UBND cấp xã nơi có đất, việc chứng thực các giao dịch liên quan đến nhà ở được thực hiện tại UBND cấp xã nơi có nhà, việc chứng thực giao dịch về bất động sản thực hiện tại UBND cấp xã nơi có bất động sản.
Việc này không bao gồm trường hợp chứng thực di chúc, văn bản từ chối nhận di sản, văn bản ủy quyền, văn bản thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng liên quan đến việc thực hiện các quyền của người sử dụng đất, nhà ở, bất động sản theo quy định của pháp luật và chứng thực việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ các giao dịch này theo quy định.
Cũng để nhằm hạn chế trạng lạm dụng yêu cầu nộp bản sao có chứng thực đối với giấy tờ, văn bản khi thực hiện thủ tục hành chính, dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung nội dung: trường hợp pháp luật quy định nộp bản sao, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận bản sao, không được yêu cầu bản sao từ sổ gốc hoặc bản sao có chứng thực nhưng có thể yêu cầu xuất trình bản chính để đối chiếu. Người tiếp nhận hồ sơ có trách nhiệm đối chiếu bản sao với bản chính và chịu trách nhiệm về tính chính xác của bản sao.
Trường hợp thông tin, giấy tờ có thể khai thác từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư hoặc cơ sở dữ liệu khác theo quy định của pháp luật, người tiếp nhận hồ sơ phải khai thác thông tin, giấy tờ từ cơ sở dữ liệu, không được yêu cầu cá nhân, tổ chức xuất trình bản chính để đối chiếu hoặc nộp bản sao từ sổ gốc, bản sao có chứng thực.
Bổ sung nội dung: trường hợp người thực hiện chứng thực có thể khai thác được các thông tin, giấy tờ quy định từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư hoặc cơ sở dữ liệu khác theo quy định của pháp luật thì người thực hiện chứng thực phải khai thác thông tin, giấy tờ và không được yêu cầu người yêu cầu chứng thực xuất trình bản chính hoặc bản sao có chứng thực Thẻ căn cước công dân hoặc Thẻ căn cước hoặc Giấy chứng nhận căn cước hoặc Hộ chiếu hoặc giấy tờ xuất nhập cảnh hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế còn giá trị sử dụng hoặc Căn cước điện tử…
Minh Dương