Bà Trương Thị Chung - người vợ liệt sĩ còn lưu giữ hơn 100 lá thư tay của chồng gửi về từ chiến trường.
Có một người vợ liệt sĩ, hơn nửa thế kỷ qua vẫn nâng niu, gìn giữ hơn 100 lá thư tay của chồng gửi về từ chiến trường. Bà nhớ từng dòng. Nhớ cả những đêm chong ngọn đèn dầu, run run mở phong thư, đọc chậm từng câu, từng chữ như để cố hình dung gương mặt và bóng dáng thân thương của người chồng nơi khói lửa chiến trường...
Khi xưa, ông là thầy giáo làng, đẹp trai, tâm lý và đặc biệt là chững chạc lắm! Ông bà cùng sinh hoạt trong đoàn thanh niên, mến rồi yêu nhau lúc nào không hay.
“Chung em! Nếu chỉ nói anh thương em nhiều lắm thì vẫn chưa đủ.Anh cảm thấy thật may mắn khi có được người vợ hiền thảo như em. Nghe các dì, câu mợ, o, bác và mẹ nhắn nhủ anh về những việc làm và đức tính tốt của Chung thì em mới thấy hết cái vinh dự, cái vui sướng của anh - người được làm chồng của em. Hình dung thế nào cho hết bóng dáng em đang ghim lại nốt lạt trên mái nhà, dáng em đảm đang, nhẹ nhàng thay chồng săn sóc mẹ già... Em chính là người bắt nhịp cho cuộc sống mới của gia đình ta. Đợi anh về, chúng mình sẽ sinh những đứa con, em nhé!..”.
Đó là những dòng tâm sự đầy thương mến mà liệt sĩ Lê Tuấn Hằng, từ hơn nửa thế kỷ trước, đã nắn nót từng dòng gửi về cho người vợ trẻ Trương Thị Chung nơi quê nhà thôn Mỹ Đà, xã Hoằng Minh trước kia, nay là xã Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Hơn nửa thế kỷ trôi qua, bà Chung gìn giữ những lá thư của chồng như báu vật của đời mình.
Hơn nửa thế kỷ trôi qua, bà vẫn nâng niu, gìn giữ cẩn thận từng lá thư như báu vật của gia đình. Mỗi lần nhớ chồng, bà lại đem ra đọc và cũng không biết bao nhiêu lần thức trắng đêm, khóc vì thương nhớ. 100 bức thư là bao buồn vui, nhung nhớ, cả những giận hờn, lo lắng và ước hẹn ngày trở về... Tất cả sống động, vẹn nguyên!
Cẩn thận khẽ lật từng lá thư, bà Chung chậm rãi kể lại: “Khi xưa, ông là thầy giáo làng, đẹp trai, tâm lý và đặc biệt là chững chạc lắm! Ông bà cùng sinh hoạt trong đoàn thanh niên, mến rồi yêu nhau lúc nào không hay”.
Bà Chung chia sẻ cảm xúc mỗi lần đọc thư của người chồng liệt sĩ.
Mùa xuân năm 1962, thầy giáo Lê Tuấn Hằng và cô gái xinh đẹp, nết na nhất làng Trương Thị Chung đã nên nghĩa vợ chồng. Chưa đầy 2 tháng sau, trước tình hình giặc Mỹ ráo riết thực hiện chiến lược xâm lược miền Nam Việt Nam, gác lại tình riêng, chàng trai trẻ Lê Tuấn Hằng đã xung phong lên đường nhập ngũ. Khi đó, ông bà còn chưa kịp có một đứa con....
Bà nhớ, ngày ấy ông đi, trời giăng mưa...
Kỷ niệm duy nhất của cặp vợ chồng trẻ là tấm ảnh chụp vội trước khi ông ra trận. Để rồi từ đó, chỉ còn những lá thư tay nối hai đầu nỗi nhớ.
Tấm ảnh kỷ niệm bà Chung chụp cùng chồng.
“Chung em, người vợ hiền của anh! Anh phải viết ngay lá thư báo tin cho em! Trên sân ga Hàm Rồng, anh đã hẹn với em điều gì, giờ đây anh đang thực hiện điều đó...”.
Từ chiến trường khốc liệt, nơi từng ngày, từng giờ phải đối mặt với cái chết, ông Hằng vẫn luôn dành thời gian, tranh thủ lúc nghỉ chân khi hành quân hay khi đêm muộn viết thư về cho vợ và gia đình. Có lá thư chỉ vỏn vẹn vài dòng, có lá dài tới mấy trang nhưng tất cả đều chan chứa yêu thương, nhớ nhung và niềm tin sắt đá vào ngày đoàn tụ. Nơi quê nhà, bà Chung giấu hết những khó khăn, nhung nhớ vào lòng, tận tụy chăm sóc mẹ già để chồng yên tâm làm nhiệm vụ.
Sau nhiều năm chiến đấu trên đất lửa Vĩnh Linh, năm 1964, ông Hằng được cấp trên cử về Bắc đi học. Thời điểm ấy, giặc Mỹ điên cuồng leo thang bắn phá miền Bắc, ông nhận lệnh làm nhiệm vụ tại Cụm cao xạ Hàm Rồng, trực tiếp bảo vệ cầu Hàm Rồng - huyết mạch giao thông quan trọng, chi viện sức người sức của cho chiến trường miền Nam. Và rồi, mùa hè đỏ lửa năm ấy, ông mãi mãi không về.
“Đợi anh về, chúng mình sẽ sinh những đứa con...”. Lời hẹn ước năm nào mãi mãi không trở thành hiện thực. Người vợ trẻ nén nỗi đau thương, một lòng chung thủy thờ chồng, chăm sóc mẹ già đau yếu. Bao nhiêu năm qua, những lá thư úa màu ấy chính là nguồn sống, là động lực mạnh mẽ để bà bước tiếp.
"Lúc buồn, tôi thường đem thư của ông ra đọc. Đi làm về mệt, tranh thủ lúc nằm nghỉ ngơi tôi cũng đọc, trước khi đi ngủ tôi cũng đọc. Đọc để cho vơi nỗi nhung nhớ. Nhiều bức thư, tôi đã thuộc làu... Trong thư chồng tôi dặn: Một gia đình cách mạng thì phải lo trước tập thể và vui sau xóm làng...” - ngắm từng nét chữ của chồng, bà Chung trải lòng.
Mỗi lần đọc thư, bà luôn cảm giác như có ông bên cạnh tâm tình, an ủi, vỗ về, xoa dịu nỗi buồn nơi tận sâu kín. Một mình lẻ bóng nhưng tình yêu, lòng thủy chung và lý tưởng sống cao đẹp thì vẫn vẹn nguyên như thuở nào. Sự hy sinh của ông nhắc bà phải mạnh mẽ sống tiếp, sống sao để nơi xa thẳm kia ông được an lòng...
Bà Chung luôn ghi nhớ và thực hiện tâm nguyện của chồng.
Nỗi buồn của một người vợ liệt sĩ chưa kịp hưởng niềm hạnh phúc làm mẹ đã nhuốm lên dáng người hanh hao, khô gầy và đôi mắt buồn thăm thẳm của bà.
Quyết định không đi bước nữa, ở vậy thủy chung thờ chồng, người phụ nữ đức hạnh, giàu lòng hy sinh ấy đã nhận 2 trẻ nhỏ có hoàn cảnh khó khăn về làm con nuôi. Vượt qua bao dông bão cuộc đời, bà đã nuôi dạy các anh lớn khôn nên người, các con các cháu của bà giờ đây đều đã trưởng thành. Dẫu không nói thành lời nhưng ai cũng muốn trả ơn dưỡng dục của bà bằng cả tấm lòng thơm thảo, biết ơn vô hạn.
“Bà sống rất tình cảm và yêu thương con cháu. Mỗi lần thấy bà trầm ngâm, tôi biết, bà đang nhớ tới ông”, chị Trịnh Thị Tám - con dâu bà Chung kể lại.
Bà Chung hạnh phúc bên con cháu.
Những lá thư của liệt sỹ Lê Tuấn Hằng viết từ nơi khói lửa chiến trường không chỉ là kỷ vật mà còn là minh chứng sống động về một thế hệ người Việt Nam bản lĩnh, kiên cường; trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất vẫn bừng lên ánh sáng của tình thân, tình yêu và trách nhiệm. Những lá thư ngả màu thời gian, mảnh còn mảnh mất ấy cũng chính là lời nhắn gửi mai sau bài học về lòng yêu nước, nhân nghĩa, thủy chung, sự hy sinh và lòng biết ơn, tri ân sâu sắc tới những anh hùng đã hy sinh xương máu, tuổi xuân vì độc lập tự do của Tổ quốc.
Bà sống rất tình cảm và yêu thương con cháu. Mỗi lần thấy bà trầm ngâm, tôi biết, bà đang nhớ tới ông.
Gió chiều đông nhoi nhói. Chia tay bà Chung, chúng tôi vẫn miên man cảm xúc về câu chuyện của hơn 100 lá thư đã ngả màu thời gian ấy.
Trong mỗi nét chữ là dáng hình người lính. Có gia đình đã đón được cha anh về nơi chôn rau cắt rốn, nhưng cũng có những gia đình ngày đêm khắc khoải thông tin. Đó là chuyện của người lính và lời nhắn gửi trong bức di thư cuối cùng, chúng tôi sẽ kể ở bài sau!
Khánh Phượng - Xuân Quang
—
Bài 2: “Thầy mẹ, bác hãy khỏe, sống để hưởng những ngày Bắc - Nam thống nhất, ngày mà con trở về quê cha đất tổ...”
Nguồn Thanh Hóa : http://baothanhhoa.vn/di-thu-cua-nguoi-linh-bai-1-trong-thu-chong-toi-dan-mot-gia-dinh-cach-mang-thi-phai-lo-truoc-tap-the-va-vui-sau-xom-lang-271689.htm