Điểm nghẽn thể chế là từ được dùng nhiều trong thời gian gần đây. Tổng Bí thư Tô Lâm, trong phát biểu phiên khai mạc kỳ họp Quốc hội ngày 21-10-2024, đã thẳng thắn nhìn nhận: “Thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn”.
Tổng Bí thư Tô Lâm đang dành nhiều ưu tiên cho công tác hoàn thiện thể chế, pháp luật.
Nhận diện "điểm nghẽn" thể chế
Nhưng nhận diện điểm nghẽn thể chế ấy cụ thể là gì thì không đơn giản. Phải sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 66 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật ngày 30-4 vừa qua, điểm nghẽn thể chế mới được nhận diện rõ hơn.
Trên cơ sở đó và triển khai kế hoạch của Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật được thành lập theo Nghị quyết 66, Bộ Tư pháp đã tham mưu để Chính phủ trình Quốc hội, ngày 24-6, ban hành Nghị quyết 206 về cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật.
Nghị quyết này đã lần đầu tiên chính thức đưa ra tiêu chí về mặt pháp lý để nhận diện những điểm nghẽn thể chế, ở khía cạnh mà nguyên nhân từ chính quy định của pháp luật.
Đó có thể là điểm nghẽn do có những quy định mâu thuẫn, chồng chéo trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) hoặc giữa các VBQPPL với nhau.
Cũng có thể là do quy định không rõ ràng, có nhiều cách hiểu khác nhau, không hợp lý, không khả thi, gây khó khăn trong áp dụng, thực hiện pháp luật.
Hoặc do những quy định tạo gánh nặng chi phí tuân thủ. Thậm chí pháp luật chưa dự liệu hết, chưa có quy định hoặc có quy định nhưng lại hạn chế việc đổi mới sáng tạo, phát triển động lực tăng trưởng mới, khơi thông nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hội nhập quốc tế.
Hơn 2. 000 kiến nghị, phản ánh
Kết quả bước đầu của cuộc rà soát hệ thống pháp luật đã cho thấy tình hình đó. Chỉ tập trung vào những điểm nghẽn thể chế đang gây kìm hãm, ách tắc, cản trở phát triển kinh tế - xã hội thôi, chứ chưa bàn rộng tới tất các điểm nghẽn vốn có thể cản trở người dân, doanh nghiệp thực thi các quyền tự do hiến định, Bộ Tư pháp với tính chất đầu mối được Ban Chỉ đạo giao nhiệm vụ đã tổng hợp được 2.092 kiến nghị, phản ánh.
Chưa phân định kiến nghị, phản ánh ấy đúng hay sai, nhưng phân loại theo lĩnh vực quản lý nhà nước thì Bộ Tài chính (hợp nhất từ hai Bộ Kế hoạch Đầu tư, Tài chính) bị phản ánh nhiều nhất, với 397 kiến nghị. Bộ Nông nghiệp và Môi trường (hợp nhất từ hai Bộ NN&PTNT và TNMT) đứng thứ nhì, 362 kiến nghị. Bộ Xây dựng (hợp nhất hai bộ Xây dựng, Giao thông) đứng thứ ba, với 194 kiến nghị; Nội vụ - 152 kiến nghị; Công Thương - 143 kiến nghị...
Lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tài chính sau khi hợp nhất với Bộ Kế hoạch- Đầu tư là rất rộng. Vậy nên cũng dễ hiểu khi cơ quan này nhận được nhiều nhất những kiến nghị, phản ánh về những khó khăn, vướng mắc có tính chất điểm nghẽn thể chế, bắt nguồn từ quy định pháp luật.
Đây chỉ là tính đại diện trong tổng số 19 cơ quan trung ương có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm cả Văn phòng Chính phủ, TAND Tối cao, VKSND Tối cao. Và dữ liệu cũng chưa thực sự đầy đủ, chính xác vì đến khi Bộ Tư pháp phải gửi báo cáo tới Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật thì vẫn một vài Bộ chưa phản hồi kết quả rà soát.
Công tác rà soát, phân loại, đối chiếu và phân tích đang được tiếp tục. Nhưng theo báo cáo tại phiên họp chuyên đề ngày 5-8 của Ban Chỉ đạo do Trưởng ban – Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì, các cơ quan này bước đầu đã xác nhận 834 phản ánh là đúng, là có cơ sở, chiếm gần 40% tổng số kiến nghị, phản ánh.
Các điểm nghẽn thể chế được thừa nhận nêu trên rải trên hầu hết lĩnh vực quản lý nhà nước, nhiều nhất là Bộ Tài chính với 107 kiến nghị được chấp nhận, Bộ Xây dựng (96), Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (74), Bộ Công Thương (73), Bộ Khoa học Công nghệ và Bộ Y tế (cùng 59 kiến nghị)…
Các con số trên là tương đối và còn có thể thay đổi trong quá trình rà soát, phân tích, xử lý. Nhưng bước đầu, các bộ, ngành, cơ quan trung ương xác định 136 kiến nghị, phản ánh cần được tháo gỡ ngay bằng cơ chế đặc biệt mà Nghị quyết 206 của Quốc hội cho phép áp dụng đến tháng 3-2027. Số còn lại sẽ dần dần tháo gỡ theo quy trình chung của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Nhưng đấy là những khó khăn, vướng mắc, những điểm nghẽn thể chế đến từ bất cập của hệ thống pháp luật. Hơn 60% còn lại, tức 1.237 nội dung kiến nghị, phản ánh được xác định không phải do hệ thống pháp luật, mà chủ yếu vì hạn chế, yếu kém trong tổ chức, thi hành pháp luật.
Kết luận của Tổng Bí thư
Cuộc rà soát, tháo gỡ các điểm nghẽn thể chế này đang hướng tới mục tiêu cụ thể, rất thách thức mà Nghị quyết 66 đặt ra là “năm 2025, cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ những điểm nghẽn do quy định pháp luật”.
Nhưng đồng thời cũng phải có kế hoạch để năm 2027, hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản pháp luật bảo đảm cơ sở pháp lý đồng bộ cho hoạt động của bộ máy nhà nước theo mô hình chính quyền ba cấp. Năm 2028, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh, góp phần đưa môi trường đầu tư của Việt Nam nằm trong nhóm ba nước dẫn đầu ASEAN.
Đây là những yêu cầu cụ thể mà Bộ Chính trị đã đề ra để hệ thống pháp luật có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Vì vậy, kết luận phiên họp chuyên đề của Ban Chỉ đạo về hoàn thiện thể chế, pháp luật, Trưởng ban- Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhắc lại Nghị quyết 66, yêu cầu Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy Chính phủ và Đảng ủy các bộ, ngành phải xác định xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật và kiểm tra, giám sát việc tổ chức thi hành pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, thường xuyên.
Người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật, chịu trách nhiệm chính về chất lượng chính sách, pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý của bộ, ngành mình. Gắn với công tác đánh giá, khen thưởng, sử dụng cán bộ và có chế tài, biện pháp xử lý đối với người không thực hiện đầy đủ trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật.
Vào lúc này, khi đại hội đảng bộ các cấp đang được đồng loạt tổ chức, thì cũng phải thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị đã thể hiện rõ trong Nghị quyết 66: “Các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan của Quốc hội cơ cấu ít nhất một lãnh đạo có chuyên môn pháp luật. Các cấp ủy địa phương quan tâm phân công cấp ủy viên phụ trách công tác tư pháp và cơ cấu giám đốc sở tư pháp tham gia cấp ủy cấp tỉnh; có cơ chế điều động, luân chuyển cán bộ, công chức của Bộ, ngành Tư pháp đi địa phương và làm việc ở Bộ, ngành Trung ương để bổ sung kinh nghiệm thực tiễn”.
NGHĨA NHÂN