Dinh dưỡng không hợp lý, lối sống thiếu lành mạnh là nguyên nhân khiến ngày càng nhiều người trẻ mắc bệnh không lây nhiễm. Ảnh: Bệnh viện E
Khi thói quen ăn uống trở thành “thủ phạm” bệnh tật
Trong thập kỷ gần đây, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong chăm sóc sức khỏe, tuổi thọ trung bình của người dân được nâng lên 74 tuổi. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của kinh tế và đô thị hóa, mô hình bệnh tật đã thay đổi rõ rệt. Nếu trước kia phần lớn các ca tử vong liên quan tới bệnh truyền nhiễm thì nay, cứ 10 người thì có tới 8 người tử vong vì bệnh không lây nhiễm, trong đó, tim mạch, ung thư, đái tháo đường và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính chiếm tỷ lệ cao nhất.
Điểm chung của các căn bệnh này là đều gắn liền với lối sống và đặc biệt là chế độ dinh dưỡng. 75% tỷ lệ tử vong tại Việt Nam hiện nay có nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp từ dinh dưỡng không hợp lý. Một khẩu phần nhiều thịt đỏ, dầu mỡ, muối, đường; thói quen tiêu thụ thực phẩm chế biến sẵn, đồ uống có cồn và ít rau xanh, trái cây đã và đang biến thói quen ăn uống thành “thủ phạm” dẫn đến bệnh tật.
Các chuyên gia cảnh báo, xã hội hiện đại đang phải đối mặt với gánh nặng kép về dinh dưỡng. Một mặt, tình trạng suy dinh dưỡng, thiếu vi chất vẫn tồn tại. Mặt khác, thừa cân, béo phì, rối loạn chuyển hóa lại gia tăng nhanh chóng.
TS.BS Trương Hồng Sơn - Viện trưởng Viện Y học Ứng dụng Việt Nam, Phó tổng Thư ký Tổng hội Y học Việt Nam chỉ rõ: “Nếu như trước đây, người dân suy dinh dưỡng chủ yếu vì nghèo đói, thì hiện nay nhiều trường hợp xuất phát từ thiếu kiến thức dinh dưỡng. Trong một gia đình, có thể người anh bị suy dinh dưỡng, nhưng người em lại thừa cân béo phì”.
Đáng lo ngại, xu hướng này diễn ra mạnh ở giới trẻ – nhóm vốn được coi là năng động và có tri thức. TS.BS Phan Bích Nga - Giám đốc Trung tâm Khám và tư vấn dinh dưỡng trẻ em, Viện Dinh dưỡng Quốc gia phân tích: “Người trẻ hiện nay tiêu thụ nhiều đồ ăn nhanh, giàu năng lượng nhưng nghèo dinh dưỡng. Thói quen ít vận động, làm việc văn phòng, sử dụng phương tiện cá nhân khiến nguy cơ béo phì, tiểu đường, rối loạn chuyển hóa ngày càng cao. Tỷ lệ thừa cân béo phì ở trẻ trên 6 tuổi đã tăng gần gấp đôi chỉ trong 10 năm, từ 8,4% lên gần 16%”.
Không chỉ thừa – thiếu năng lượng, tình trạng “đói vi chất” âm thầm cũng đang là vấn đề nhức nhối. Thực phẩm chế biến nhanh, giàu chất bảo quản và phụ gia nhưng nghèo vitamin, khoáng chất ngày càng phổ biến trong khẩu phần.
Thói quen ăn uống tưởng chừng đơn giản, nhưng lại đang chi phối sâu sắc tới sức khỏe cộng đồng. Khi thói quen này sai lệch, nó không chỉ gây ra những căn bệnh mạn tính đắt đỏ và khó điều trị, mà còn rút ngắn “tuổi khỏe mạnh” của người dân – tức khoảng thời gian sống mà ít bệnh tật, ít phụ thuộc.
“Chìa khóa” nâng cao sức khỏe cộng đồng
Nếu như chế độ ăn uống thiếu khoa học là “thủ phạm” gây nên gánh nặng bệnh tật, thì dinh dưỡng hợp lý lại chính là “chìa khóa vàng” để nâng cao sức khỏe cộng đồng. Bằng chứng khoa học đã chỉ ra, một chế độ dinh dưỡng lành mạnh có thể giảm tới 80% nguy cơ bệnh tim mạch, 90% nguy cơ đái tháo đường type 2 và khoảng 1/3 số ca ung thư. Điều này có nghĩa, thay đổi bữa ăn hàng ngày không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe hiện tại mà còn quyết định cả tương lai sức khỏe của mỗi cá nhân và toàn xã hội.
ThS.BS Nguyễn Văn Tiến - Viện Dinh dưỡng Quốc gia nhấn mạnh: “Không có loại thực phẩm nào toàn diện, cung cấp đủ dưỡng chất. Mỗi bữa ăn cần đa dạng, phối hợp nhiều nhóm thực phẩm để các chất bổ sung cho nhau. Người dân cần ăn cân đối giữa đạm động vật và thực vật, tăng cường rau xanh, hoa quả, hạn chế muối, đường, chất béo bão hòa, đặc biệt là thực phẩm chế biến sẵn”.
Những khuyến nghị này tưởng chừng quen thuộc, nhưng trên thực tế lại chưa được nhiều gia đình áp dụng nghiêm túc. Chuyên gia cho biết, dinh dưỡng hợp lý cần được nhìn nhận xuyên suốt vòng đời. Từ giai đoạn bào thai, chế độ ăn của người mẹ đã ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe tim mạch, tiểu đường hay nguy cơ ung thư của đứa trẻ trong tương lai. Trẻ em được bú sữa mẹ đầy đủ, ăn uống đa dạng ở tuổi thơ ấu sẽ có nguy cơ thấp hơn với các bệnh mạn tính sau này. Ở người trưởng thành và cao tuổi, cải thiện chế độ ăn và tăng vận động có thể làm chậm tiến triển bệnh, giảm tỷ lệ tử vong và tàn tật.
Tuy nhiên, để thay đổi nhận thức và hành vi dinh dưỡng trong cộng đồng không hề dễ. TS.BS Trương Hồng Sơn cho rằng: “Khái niệm ăn đúng, ăn đủ vi chất rất khó để người dân tự tính toán. Vì vậy, cần có công cụ hỗ trợ, truyền thông giáo dục dinh dưỡng thường xuyên, giúp người dân hiểu thế nào là khẩu phần khoa học, phù hợp từng độ tuổi, từng hoàn cảnh”. Ông cũng cảnh báo tình trạng thông tin sai lệch về thực phẩm tràn lan trên mạng xã hội, gây hoang mang và dẫn tới những sai lầm trong nuôi dưỡng, để lại hệ lụy lâu dài cho sức khỏe.
Ở góc độ chính sách, các chuyên gia kêu gọi sớm xây dựng Luật Dinh dưỡng nhằm đặt ra chuẩn mực pháp lý, kiểm soát truyền thông về thực phẩm, đồng thời, bảo vệ người tiêu dùng trước các quảng cáo thiếu kiểm chứng. Song song đó, việc phát triển y tế học đường để theo dõi, điều chỉnh chế độ ăn cho học sinh, cùng các chương trình bổ sung vi chất cộng đồng, sẽ giúp cải thiện tình trạng “đói vi chất” đang âm thầm lan rộng.
Đức Trân