Định giá đất theo nguyên tắc thị trường để hướng tới thị trường minh bạch và công bằng

Định giá đất theo nguyên tắc thị trường để hướng tới thị trường minh bạch và công bằng
một giờ trướcBài gốc
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính về đất đai
Trình bày Tờ trình của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng cho biết, nội dung dự thảo nghị quyết bám sát chủ trương, chính sách tại Nghị quyết, Kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư được ban hành trong các năm 2023, 2024 và năm 2025, đặc biệt là Nghị quyết số 69-NQ/TW; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính về đất đai, chuyển đổi số dựa trên hệ thống thông tin đất đai thống nhất, tích hợp thông tin đất đai với thông tin thị trường bất động sản, cơ sở dữ liệu về dân cư và các cơ sở dữ liệu có liên quan.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định điều hành phiên họp.
Dự thảo Nghị quyết được bố cục thành 3 Chương, 13 điều. Về nội dung cơ bản của dự thảo nghị quyết, nhóm thứ nhất, các nội dung thể chế quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp theo Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Kết luận của Bộ Chính trị: Thứ nhất, bổ sung 3 trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng (khoản 2 Điều 3).
Thứ hai, quy định về điều kiện thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng (khoản 3 Điều 3).
Thứ ba, quy định về căn cứ thu hồi đất đối với trường hợp thu hồi đất theo tiến độ của dự án đầu tư hoặc theo tiến độ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư (khoản 5 Điều 3).
Thứ tư, quy định giá đất để tính bồi thường về đất và giá đất tái định cư được tính theo giá đất trong bảng giá đất và hệ số điều chinh giá đất (khoản 6 Điều 3).
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng trình bày Tờ trình của Chính phủ.
Thứ năm, cho phép người sử dụng đất được lựa chọn hình thức thuê đất trả tiền một lần hoặc thuê đất trả tiền hàng năm, trừ trường hợp sử dụng đất của đơn vị sự nghiệp công lập. Đối với dự án đầu tư sử dụng quỹ đất do cơ quan, tổ chức của Nhà nước được giao quản lý thì Nhà nước cho thuê đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất, trừ trường hợp quy định tại Điều 124 Luật Đất đai. Đối với dự án đầu tư đang sử dụng đất thuộc trường hợp Nhà nước cho thuê đất theo hình thức trả tiền thuê đất hằng năm từ quỹ đất do cơ quan, tổ chức của Nhà nước được giao quản lý thì không được chuyển sang hình thức thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê (khoản 2 Điều 4).
Thứ sáu, quy định căn cứ tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là giá đất theo bảng giá đất, hệ số điều chỉnh giá đất, tỷ lệ tính thu tiền sử dụng đất đối với từng loại đất theo đối tượng, hình thức sử dụng đất (Điều 5 và Điều 7).
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi trình bày báo cáo thẩm tra.
Thứ bảy, quy định rõ ngân sách của Trung ương và địa phương trong việc bảo đảm cho các hoạt động xây dựng, quản lý, vận hành, bảo trì, nâng cấp hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin và phần mềm của Hệ thống thông tin quốc gia về đất đai; về xây dựng, cập nhật cơ sở dữ liệu đất đai do Trung ương thực hiện. (khoản 5 Điều 11).
Thứ tám, quy định một số nội dung chuyển tiếp để giải quyết khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai (khoản 7, khoản 8 và khoản 9 Điều 11).
Nhóm thứ hai, các nội dung giải quyết “điểm nghẽn” đã được chỉ ra tại Thông báo số 08-TB/BCĐTW của Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật:
Thứ nhất, bổ sung trường hợp Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh làm cơ sở cai nghiện ma túy do lực lượng vũ trang nhân dân quản lý (khoản 1 Điều 3).
Thứ hai, quy định thời hạn niêm yết công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là 10 ngày. Thời hạn tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là 30 ngày (điểm b khoản 6 Điều 3).
Các đại biểu Quốc hội nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai.
Thứ ba, quy định điều kiện để đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất đối với dự án đầu tư xây dựng khu đô thị, khu dân cư nông thôn là có quy hoạch phân khu hoặc quy hoạch chung đối với trường hợp không yêu cầu lập quy hoạch phân khu hoặc quy hoạch chi tiết theo quy định của pháp luật về quy hoạch đô thị và nông thôn (khoản 6 Điều 4).
Thứ tư, quy định bảng giá đất được áp dụng để tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất khi Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất, gia hạn sử dụng đất... Trường hợp giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư lấn biển hoặc dự án đầu tư có hạng mục lấn biển thì thực hiện xác định giá đất cụ thể theo quy định của Luật Đất đai (khoản 1 Điều 7).
Thứ năm, không bắt buộc tách thửa đối với trường hợp chuyển mục đích sử dụng một phần thửa đất; đối với trường hợp hợp các thửa đất thì không bắt buộc phải cùng mục đích sử dụng đất, hình thức sử dụng đất, thời hạn sử dụng đất (khoản 3 Điều 11).
Thứ sáu, quy định chuyển tiếp để tiếp tục giải quyết khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai (điểm d và điểm đ khoản 9 Điều 4).
Nhóm thứ ba, các nội dung để tiếp tục tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thi hành Luật Đất đai.
Thứ nhất, về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư (Điều 3): tập trung tháo gỡ về việc khấu trừ số tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư mà nhà đầu tư đã ứng trước; quy định về thời gian thông báo thu hồi đất; về các trường hợp không được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất; về bồi thường thiệt hại về tài sản khi Nhà nước thu hồi đất và về một số quy định chuyển tiếp để giải quyết khoảng trống trong tổ chức, triển khai thực hiện.
Thứ hai, về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất (Điều 4), tập trung tháo gỡ về căn cứ, điều kiện giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bổ sung một số trường hợp giao đất, cho thuê đất không đấu giá quyền sử dụng đất, không đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất. Cho phép điều chỉnh thời hạn sử dụng đất theo thời gian thực hiện dự án đầu tư đối với các Nhà đầu tư mới thay thế cho nhà đầu tư đã giải thể, phá sản, nhà đầu tư nhận chuyển nhượng dự án đầu tư có sử dụng đất; và một số quy định chuyển tiếp để giải quyết khoảng trống trong tổ chức, triển khai thực hiện.
Thứ ba, về tài chính đất đai, giá đất (từ Điều 5 đến Điều 10), tập trung tháo gỡ về căn cứ tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; thời điểm lựa chọn thông tin đầu vào; sửa đổi quy định về bảng giá đất, hệ số điều chỉnh giá đất, Hội đồng thẩm định giá đất, miễn giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất.
Thứ tư, các nội dung tháo gỡ về điều kiện bán tài sản trên đất thuê trả tiền hàng năm; sửa đổi, bổ sung quy định về hợp thửa, tách thửa, về đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với một số trường hợp cụ thể.
Tháo gỡ “nút thắt” trong việc thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội thông qua thỏa thuận nhận quyền sử dụng đất
Thẩm tra dự thảo nghị quyết, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi cho biết, đa số ý kiến Ủy ban Kinh tế và Tài chính cho rằng, đây là một đề xuất chính sách nhằm tháo gỡ “nút thắt” trong việc thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội thông qua thỏa thuận nhận quyền sử dụng đất.
Cơ chế này tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư khi đã đàm phán được phần lớn diện tích đất nhưng gặp khó khăn không hoàn thành được việc giải phóng mặt bằng triển khai dự án đúng tiến độ. Đồng thời đề nghị, làm rõ hơn cơ sở đề xuất tỷ lệ diện tích và tỷ lệ số người đồng thuận; cơ chế xử lý đối với diện tích còn lại của dự án khi nhà đầu tư đã thỏa thuận được trên 75% diện tích và nhận được sự đồng thuận của trên 75% số lượng chủ sử dụng đất trong phạm vi thực hiện dự án.
Các đại biểu Quốc hội nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai.
Việc xử lý diện tích đất còn lại và số người có đất còn lại cần phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp; hạn chế phát sinh khiếu nại, khiếu kiện. Đề nghị cần có quy định hài hòa lợi ích khi tính tiền bồi thường, tránh khả năng phát sinh khiếu nại, khiếu kiện khi áp dụng bảng giá đất và hệ số điều chỉnh để tính tiền bồi thường đối với những trường hợp còn lại vì giá đất trong bảng giá thường thấp hơn mức giá trung bình đã thỏa thuận.
Một số ý kiến cho rằng, việc bổ sung các trường hợp thu hồi đất cần được cân nhắc thận trọng, bảo đảm quy định của Hiến pháp, tránh ảnh hưởng đến quyền của người dân, không nên áp dụng đại trà trước khi có đánh giá tác động cụ thể, có thể báo cáo cấp có thẩm quyền cho phép áp dụng cơ chế thí điểm đối với một số trường hợp Chính phủ đề xuất bổ sung tại các địa phương có Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách đặc thù, để có căn cứ sửa đổi toàn diện Luật Đất đai trong thời gian tới.
Về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất (Điều 4), Ủy ban Kinh tế và Tài chính tán thành việc được lựa chọn hình thức thuê đất như dự thảo nghị quyết để bảo đảm tính linh hoạt, phù hợp hơn với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất là những nội dung quan trọng, là quy định mới so với Luật Đất đai hiện hành; do đó, cần hết sức cân nhắc, thận trọng và phải bảo đảm: phù hợp với chế độ sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, nhất là quyền định đoạt của chủ sở hữu; điều hành chính sách phát triển kinh tế - xã hội dựa trên nguồn lực đất đai, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; nguồn thu ngân sách nhà nước.
Ủy ban Kinh tế và Tài chính thống nhất với quan điểm tiếp cận nêu tại Tờ trình của Chính phủ về căn cứ tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, thời điểm xác định giá đất dự kiến của quỹ đất thanh toán dự án BT (Điều 5). Tuy nhiên, việc đề xuất áp dụng Bảng giá đất (thay cho giá đất cụ thể) để tính thu nghĩa vụ tài chính và tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cần phải bảo đảm mục tiêu chính của chính sách; bảo đảm tính hài hòa, minh bạch và hiệu quả, tránh gây gánh nặng tài chính cho người dân và doanh nghiệp. Đồng thời, đề nghị làm rõ hơn căn cứ tính tiền sử dụng đất, tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, bồi thường về đất, giá đất tái định cư là giá đất theo bảng giá đất và hệ số điều chỉnh giá đất có đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn phát triển không, vì hệ số điều chỉnh giá đất có ưu điểm dễ tính toán nhưng căn cứ xác định chưa rõ ràng.
Về nguyên tắc định giá đất, thời điểm thu thập thông tin, phương pháp định giá đất (Điều 6), Ủy ban Kinh tế và Tài chính cho rằng, việc định giá đất theo nguyên tắc thị trường là cần thiết để hướng tới một thị trường bất động sản minh bạch và công bằng. Tuy nhiên, quá trình triển khai cần được thực hiện thận trọng, có lộ trình rõ ràng, với các phương pháp định giá khoa học và khách quan. Việc củng cố cơ sở dữ liệu và tăng cường vai trò giám sát của các cơ quan độc lập sẽ giúp giải quyết các thách thức hiện tại, đảm bảo sự thành công của chính sách…
Nhật Minh
Nguồn CAND : https://cand.com.vn/su-kien-binh-luan-thoi-su/dinh-gia-dat-theo-nguyen-tac-thi-truong-de-huong-toi-thi-truong-minh-bach-va-cong-bang-i788427/