Việc áp dụng chính sách công nghiệp chọn lọc, chủ động, dài hạn đã giúp vươn mình trở thành các trung tâm sản xuất công nghệ toàn cầu.
Khát vọng tăng trưởng hai con số
Việt Nam đang đứng trước khát vọng lớn về tăng trưởng kinh tế hai con số - một mục tiêu mang tính bước ngoặt nhằm thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và hiện thực hóa các Mục tiêu Phát triển quốc gia đến năm 2030 và tầm nhìn 2045.
Theo các chuyên gia kinh tế, để đạt được mức tăng trưởng kinh tế ấn tượng trong thời gian qua và mức tăng trưởng công nghiệp tích cực có một phần đóng góp không nhỏ từ chính sách công nghiệp.
Các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước thảo luận và đề xuất để Việt Nam đạt được mục tiêu tăng trưởng 8% trở lên trong năm 2025 và tăng trưởng 2 con số trong giai đoạn tiếp theo.
Chia sẻ tại Hội thảo Công bố Báo cáo Kinh tế thường niên Việt Nam 2025 do Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện Friedrich Naumann Foundation (FNF) Việt Nam tổ chức, PGS., TS. Nguyễn Trúc Lê - Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, cho biết: Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu tiếp tục đối mặt với nhiều bất ổn, từ xung đột địa chính trị đến xu hướng bảo hộ thương mại, chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn và các rủi ro tài chính leo thang, để kinh tế Việt Nam hướng tới việc tăng trưởng hai con số, ngoài các cách tiếp cận truyền thống như ưu đãi đầu tư, chúng ta cần bổ sung thêm một cách tiếp cận mới, một góc nhìn mới, đó là, định vị lại vai trò của Chính sách công nghiệp.
Theo kinh nghiệm từ các quốc gia và vùng lãnh thổ khu vực Đông Á như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc hay Đài Loan (Trung Quốc), PGS., TS. Nguyễn Trúc Lê cho rằng, việc áp dụng chính sách công nghiệp chọn lọc, chủ động, dài hạn đã giúp họ vươn mình trở thành các trung tâm sản xuất công nghệ toàn cầu.
Do vậy, việc định vị lại vai trò chính sách công nghiệp trong thời điểm hiện tại là vô cùng cần thiết. Cùng với đó, Việt Nam cần xác lập một cách tiếp cận mới, lấy doanh nghiệp tư nhân làm trung tâm chính sách, lấy công nghiệp làm nền tảng và lấy đổi mới sáng tạo làm trục phát triển.
Theo PGS., TS. Nguyễn Trúc Lê, mặc dù nền kinh tế Việt Nam đã phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch với tăng trưởng GDP đạt 7,09% trong năm 2024 và gần 7% trong quý I/2025, nhưng vẫn còn những điểm nghẽn mang tính cấu trúc, đặc biệt liên quan đến chính sách công nghiệp và khu vực tư nhân. Cụ thể, khu vực tư nhân hiện đóng góp khoảng 50% GDP, 30% thu ngân sách, 82% tổng số lao động, tuy nhiên, năng suất lao động, trình độ công nghệ, mức độ liên kết chuỗi còn thấp.
“Mô hình tăng trưởng hiện tại vẫn phụ thuộc nhiều vào FDI và xuất khẩu thô. TFP - năng suất nhân tố tổng hợp ở mức thấp và nhiều năm thậm chí âm”, PGS., TS. Nguyễn Trúc Lê nói.
PGS., TS. Nguyễn Trúc Lê cũng chỉ ra các vấn đề như đầu tư công nghiệp còn thiếu trọng tâm ngành - vùng; các chính sách hỗ trợ chưa tạo được cú huých cho doanh nghiệp nội địa bước vào chuỗi giá trị toàn cầu; hạn chế trong nghiên cứu phát triển (R&D), thiếu hạ tầng số, thiếu kết nối giữa khu vực công và tư; chính sách cần phải đồng bộ hóa hơn nữa và có một cơ chế giám sát thường xuyên, hiệu quả trong công tác thực thi chính sách.
Xây dựng chính sách công nghiệp, nâng cao năng lực khu vực tư nhân
Bà Vanessa Kristina Steinmetz - Giám đốc FNF Việt Nam cũng cho rằng, khu vực tư nhân đang là động lực năng động nhất của nền kinh tế. Do đó, việc cải cách thể chế, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, tạo điều kiện tiếp cận vốn, công nghệ và kỹ năng là những yếu tố quyết định để doanh nghiệp tư nhân phát triển vững mạnh hơn nữa. “Chính sách công nghiệp cần không chỉ dẫn dắt, mà phải tiếp thêm sức mạnh cho khu vực tư nhân”, bà Vanessa Kristina Steinmetz cho hay.
Chia sẻ tại Hội thảo Công bố Báo cáo Kinh tế thường niên Việt Nam 2025, PGS., TS. Nguyễn Trúc Lê cho biết, chính sách công nghiệp không chỉ là công cụ ngành đơn thuần, mà cần được định vị là một động lực chiến lược - hỗ trợ khu vực tư nhân phát triển nhanh và bền vững, đóng góp trực tiếp vào mục tiêu tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2026 - 2030.
Trong bối cảnh Việt Nam đặt mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045, đây được đánh giá là mục tiêu không hề đơn giản, theo đó để đạt được mục tiêu trên, việc xây dựng một chính sách công nghiệp là cần thiết.
Chính sách sẽ góp phần thay đổi mô hình tăng trưởng, xác định sản phẩm có lợi thế so sánh trong các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Hình thành thể chế hiệu quả, nâng cao năng lực khu vực tư nhân, tạo sự đồng lòng trong toàn nền kinh tế.
TS. Dorsata Madani - Chuyên gia kinh tế cấp cao của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, chính sách công nghiệp cần tập trung nâng cao nội lực của doanh nghiệp trong nước; đồng thời, có chính sách tập trung hỗ trợ một số ngành công nghiệp trọng điểm, có tính chất liên ngành và hỗ trợ tích cực cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Để phù hợp với bối cảnh mới, định hướng chính sách công nghiệp trong thời gian tới cần được xác lập trên cơ sở tận dụng thế mạnh hiện có; trong đó, có công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn đóng vai trò hạt nhân.
Các chuyên gia kinh tế cũng khuyến nghị, trong thời gian tới, chính sách cần hướng vào tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện phát triển cho doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ, thông qua việc đảm bảo nguồn lực về đất đai, vốn, lao động và công nghệ.
Ngoài ra, cần có giải pháp tiếp cận chính sách dựa trên lợi thế so sánh, phát huy hiệu ứng lan tỏa của chuỗi giá trị trong nước. Song song với đó, cần có chính sách phù hợp nhằm tận dụng tối đa lợi thế so sánh, thúc đẩy vai trò của khu vực tư nhân, tạo động lực mạnh mẽ giúp các ngành công nghiệp trong nước nâng cao hiệu quả sản xuất, trình độ công nghệ, vị thế trong mạng lưới thương mại toàn cầu.
Khi được thực thi trên cơ sở nguồn lực, quy định rõ ràng cùng cơ chế giám sát, đánh giá hiệu quả, chính sách công nghiệp sẽ thực sự trở thành công cụ chiến lược trong mục tiêu đưa Việt Nam vững bước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp với bối cảnh toàn cầu mới.
Bích Hà