Với 440/451 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội đã thông qua dự án Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Luật Quản lý và Đầu tư vốn nhà nước có 8 Chương, 59 Điều. Luật mới đã cắt giảm khoảng 30% thủ tục hành chính cho doanh nghiệp nhà nước như: Phê duyệt chiến lược kinh doanh 5 năm; Phê duyệt kế hoạch sản xuất - kinh doanh hàng năm; Phê duyệt phương án huy động vốn lớn hơn 50% vốn chủ sở hữu trên báo cáo tài chính; trường hợp huy động vốn có hệ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu lớn hơn 3 lần; khoản vay nước ngoài; Phê duyệt quỹ tiền lương, thù lao của người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát viên; Ban hành Điều lệ của doanh nghiệp; Phê duyệt Báo cáo tài chính...
Báo cáo giải trình trước khi đại biểu quốc hội biểu quyết, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi cho biết, về huy động vốn, cho vay vốn, thể chế hóa Nghị quyết số 12-NQ/TW, quy định cho phép doanh nghiệp được cho công ty do doanh nghiệp nắm trên 50% vốn điều lệ vay vốn sẽ góp phần tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp; tạo điều kiện cho doanh nghiệp do doanh nghiệp thành lập hoặc đầu tư vốn có thể tiếp cận được nguồn vốn hợp lý, có thêm nguồn lực để phát triển.
Quốc hội đã thông qua dự án Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Đồng thời, dự thảo Luật giao Chính phủ quy định chi tiết điều kiện bảo lãnh, điều kiện cho vay nhằm bảo đảm quản lý chặt chẽ, kiểm soát rủi ro. Như vậy, dự thảo Luật đã cơ bản bao quát các vấn đề ĐBQH quan tâm, hài hòa giữa quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và yêu cầu giám sát, quản lý của nhà nước.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đề nghị Chính phủ khi xây dựng văn bản quy định chi tiết cần lưu ý quy định rõ về điều kiện, mục đích sử dụng vốn vay, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay, biện pháp bảo đảm khoản vay, cơ chế giám sát, kiểm tra trong quá trình cho vay và thu hồi nợ; bảo đảm các khoản vay được sử dụng đúng mục đích, có khả năng thu hồi đầy đủ, đúng hạn.
Về hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, theo ông Phan Văn Mãi, doanh nghiệp có vốn nhà nước được thực hiện các hoạt động kinh doanh phù hợp với quy định của pháp luật và định hướng của nhà nước với vai trò của chủ sở hữu thông qua điều lệ, chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Do đó, việc quy định không cho phép toàn bộ doanh nghiệp nhà nước đầu tư bất động sản, mà chỉ cho phép một số doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn được thực hiện hoạt động đầu tư này sẽ làm hạn chế quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, không phù hợp với chủ trương của Đảng về đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, UBTVQH xin không quy định nội dung này trong dự thảo Luật.
Về chuyển nhượng dự án đầu tư, vốn đầu tư của doanh nghiệp, tiếp thu ý kiến ĐBQH, nhằm bảo đảm linh hoạt trong tổ chức thực hiện, kịp thời xử lý các tình huống phát sinh trong thực tiễn nhưng vẫn giữ nguyên yêu cầu về tính công khai, minh bạch, UBTVQH đã chỉ đạo các cơ quan rà soát, chỉnh lý khoản 6 Điều 21 dự thảo Luật và giao Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Về đánh giá, xếp loại doanh nghiệp (Điều 50, Điều 51, Điều 52 và Điều 53 dự thảo Luật), theo UBTVQH, các quy định về đánh giá, xếp loại doanh nghiệp trong dự thảo Luật được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 52 theo hướng đánh giá, xếp loại doanh nghiệp được thực hiện trên cơ sở hiệu quả hoạt động tổng thể của doanh nghiệp, đồng thời có loại trừ các yếu tố: việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, quốc phòng, an ninh; nhiệm vụ không vì mục tiêu lợi nhuận; việc thử nghiệm công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới và tác động của yếu tố khách quan.
UBTVQH đánh giá, quy định như dự thảo Luật đã cơ bản bao quát các nội dung mà đại biểu đề cập, góp phần tạo cơ sở pháp lý vững chắc và phù hợp để đánh giá chính xác hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh thực hiện đa dạng các nhiệm vụ và chịu tác động của nhiều yếu tố đặc thù. Do đó, UBTVQH xin tiếp thu một phần ý kiến của ĐBQH và chỉnh lý hợp lý tại Điều 50, 51, 52 và 53 như dự thảo Luật đã trình Quốc hội.
Về Tổng Công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước, ông Phan Văn Mãi cho hay, Tổng Công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước có lĩnh vực kinh doanh đặc thù, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động khác với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh khác. Luật số 69 đã có quy định giao Chính phủ quy định đối với hoạt động của Tổng Công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước. Tuy nhiên, việc quy định cụ thể Tổng Công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước trong dự thảo Luật là không đảm bảo phù hợp với thẩm quyền của Quốc hội và chủ trương của Đảng tại Kết luận số 119-KL/TW là: “các quy định của luật phải mang tính ổn định, có giá trị lâu dài.” và “luật chỉ quy định những vấn đề thuộc thẩm quyền Quốc hội, không luật hóa các nội dung thuộc phạm vi điều chỉnh của văn bản dưới luật”. Việc ghi nhận Tổng Công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước trong luật cũng sẽ làm giảm tính khách quan và khái quát của luật, đồng thời tiềm ẩn rủi ro hoặc can thiệp hành chính không cần thiết vào hoạt động của doanh nghiệp.
Do vậy, để bảo đảm có cơ sở pháp lý, trên cơ sở kế thừa Luật số 69, UBTVQH xin tiếp thu một phần ý kiến đại biểu và đã chỉ đạo các cơ quan liên quan rà soát, chỉnh lý, bổ sung quy định tại khoản 4 Điều 35 dự thảo Luật. Theo đó, giao Chính phủ quy định về hoạt động, cơ chế tài chính của doanh nghiệp có chức năng kinh doanh vốn nhà nước.
An Nhiên