Ông Phan Văn Mãi, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế - Tài chính của Quốc hội báo cáo tại phiên họp. Ảnh: Quang Vinh.
Trước khi thông qua dự thảo Luật, ông Phan Văn Mãi, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế - Tài chính của Quốc hội đã báo cáo việc tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự thảo Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Theo đó, về huy động vốn, cho vay vốn (Điều 19 dự thảo Luật) có ý kiến đề nghị quy định rõ điều kiện, thẩm quyền, trách nhiệm của từng chủ thể trong việc huy động, cho vay vốn để doanh nghiệp được chủ động quyết định về nguồn vốn cho vay, lãi suất cho vay đối với công ty con.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo rằng: Thể chế hóa Nghị quyết số 12-NQ/TW, quy định cho phép doanh nghiệp được cho công ty do doanh nghiệp nắm trên 50% vốn điều lệ vay vốn sẽ góp phần tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp; tạo điều kiện cho doanh nghiệp do doanh nghiệp thành lập hoặc đầu tư vốn có thể tiếp cận được nguồn vốn hợp lý, có thêm nguồn lực để phát triển. Đồng thời, dự thảo Luật giao Chính phủ quy định chi tiết điều kiện bảo lãnh, điều kiện cho vay nhằm bảo đảm quản lý chặt chẽ, kiểm soát rủi ro.
Như vậy, dự thảo Luật đã cơ bản bao quát các vấn đề ĐBQH quan tâm, hài hòa giữa quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và yêu cầu giám sát, quản lý của Nhà nước. Đề nghị Chính phủ khi xây dựng văn bản quy định chi tiết cần lưu ý quy định rõ về điều kiện, mục đích sử dụng vốn vay, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay, biện pháp bảo đảm khoản vay, cơ chế giám sát, kiểm tra trong quá trình cho vay và thu hồi nợ; bảo đảm các khoản vay được sử dụng đúng mục đích, có khả năng thu hồi đầy đủ, đúng hạn.
Về hoạt động đầu tư của doanh nghiệp (Điều 20 dự thảo Luật), ông Mãi cho hay, có ý kiến đề nghị xem xét không cho phép toàn bộ doanh nghiệp nhà nước đầu tư bất động sản mà chỉ cho phép doanh nghiệp lớn của nhà nước được đầu tư lĩnh vực này.
Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Doanh nghiệp có vốn Nhà nước được thực hiện các hoạt động kinh doanh phù hợp với quy định của pháp luật và định hướng của Nhà nước với vai trò của chủ sở hữu thông qua điều lệ, chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Do đó, việc quy định không cho phép toàn bộ doanh nghiệp nhà nước đầu tư bất động sản, mà chỉ cho phép một số doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn được thực hiện hoạt động đầu tư này sẽ làm hạn chế quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, không phù hợp với chủ trương của Đảng về đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin không quy định nội dung này trong dự thảo Luật.
Về chuyển nhượng dự án đầu tư, vốn đầu tư của doanh nghiệp (Điều 21 dự thảo Luật) có ý kiến cho rằng cần quy định chặt chẽ hơn việc chuyển nhượng dự án đầu tư tại Điều 21 và giao Chính phủ quy định chi tiết., theo ông Mãi, tiếp thu ý kiến ĐBQH nhằm bảo đảm linh hoạt trong tổ chức thực hiện, kịp thời xử lý các tình huống phát sinh trong thực tiễn nhưng vẫn giữ nguyên yêu cầu về tính công khai, minh bạch, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo các cơ quan rà soát, chỉnh lý khoản 6 Điều 21 dự thảo Luật và giao Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Về phân phối lợi nhuận sau thuế (Điều 25 dự thảo Luật) có ý kiến đề nghị bổ sung quy định xử lý chi phí khảo sát, thăm dò khoáng sản không thành công trong phân phối lợi nhuận sau thuế.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, ý kiến đại biểu nêu là xác đáng. Đặc thù của ngành khai thác khoáng sản là các hoạt động khảo sát, thăm dò khoáng sản phải được thực hiện để làm cơ sở cho doanh nghiệp quyết định việc lập và triển khai dự án. Chỉ sau khi lập dự án thì các chi phí này mới được ghi nhận là chi phí của dự án đầu tư. Trường hợp kết quả thăm dò không đạt kỳ vọng, không bảo đảm hiệu quả kinh tế, doanh nghiệp không thể triển khai được dự án, do đó các chi phí này không được ghi nhận là chi phí của dự án.
Vì vậy, để giải quyết những bất cập, khó khăn của thực tiễn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu ý kiến đại biểu và đã chỉ đạo các cơ quan rà soát, chỉnh lý tại điểm b khoản 1 Điều 25 dự thảo Luật như sau: Chi phí khảo sát, thăm dò khoáng sản cho mục đích đầu tư không đủ điều kiện triển khai dự án theo quy định của Chính phủ”
Về bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp (Điều 26 dự thảo Luật) có ý kiến đề nghị bổ sung một khoản vào Điều 26, không áp dụng tiêu chí bảo toàn và phát triển vốn đối với một số doanh nghiệp thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và nhiệm vụ chính trị xã hội do Đảng, Nhà nước giao.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu một phần ý kiến của ĐBQH và đã chỉ đạo các cơ quan rà soát, chỉnh lý, chuyển nội dung quy định về loại trừ các yếu tố ảnh hưởng tới bảo toàn và phát triển vốn tại khoản 2 Điều 26 về khoản 2 Điều 51 dự thảo Luật.
Về đánh giá, xếp loại doanh nghiệp (Điều 50, Điều 51, Điều 52 và Điều 53 dự thảo Luật) có ý kiến đề nghị bổ sung nhiệm vụ phát triển công nghệ chiến lược vào điểm c khoản 1 Điều 51 như sau: “hiệu quả hoạt động tổng thể của doanh nghiệp có loại trừ các yếu tố tác động do thực hiện nhiệm vụ chính trị, quốc phòng, an ninh và nhiệm vụ phát triển công nghệ chiến lược”.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo như sau: Các quy định về đánh giá, xếp loại doanh nghiệp trong dự thảo Luật được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 52 theo hướng đánh giá, xếp loại doanh nghiệp được thực hiện trên cơ sở hiệu quả hoạt động tổng thể của doanh nghiệp, đồng thời có loại trừ các yếu tố: việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, quốc phòng, an ninh; nhiệm vụ không vì mục tiêu lợi nhuận; việc thử nghiệm công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới và tác động của yếu tố khách quan. Quy định như dự thảo Luật đã cơ bản bao quát các nội dung mà đại biểu đề cập, góp phần tạo cơ sở pháp lý vững chắc và phù hợp để đánh giá chính xác hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh thực hiện đa dạng các nhiệm vụ và chịu tác động của nhiều yếu tố đặc thù. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu một phần ý kiến của ĐBQH và chỉnh lý hợp lý tại Điều 50, 51, 52 và 53 như dự thảo Luật đã trình Quốc hội.
Việt Thắng