Doanh nghiệp thép với loạt khó khăn từ thị trường xuất khẩu

Doanh nghiệp thép với loạt khó khăn từ thị trường xuất khẩu
8 giờ trướcBài gốc
Xuất khẩu thép thành phẩm năm 2024 đạt 8,042 triệu tấn
Đánh giá tổng quan về tình hình sản xuất kinh doanh của ngành thép trong năm 2024 tại Hội nghị giao ban xúc tiến thương mại với Hệ thống thương vụ Việt Nam mới đây, ông Đinh Quốc Thái - Tổng thư ký kiêm Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) cho biết, thị trường thép thế giới tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn do xung đột địa chính trị, cạnh tranh chiến lược trên thế giới và căng thẳng thương mại, đứt gãy chuỗi cung ứng của thị trường toàn cầu và nhiều nguyên nhân khác. Năm 2024 tiếp tục tăng trưởng âm chỉ đạt 1,839 tỷ tấn thép thô (giảm 0,9% so 2023 và 2023 giảm 0,8% so với 2022).
"Mặc dù bị ảnh hưởng trực tiếp của thị trường thép toàn cầu, nhưng nhờ sự chỉ đạo quyết liệt, có hiệu quả của Chính phủ, các bộ ngành trong việc tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản, xây dựng, đẩy mạnh các dự án đầu tư công, các chính sách hỗ trợ tái thiết và phục hồi sau thiên tai nhất là bão Yagi... nên năm 2024 thị trường thép Việt Nam đã dần hồi phục và có tăng trưởng, và đạt kết quả tích cực" - ông Thái cho hay.
Năm 2024 thị trường thép Việt Nam đã dần hồi phục và đạt kết quả tích cực. Ảnh: T.N
Sản xuất thép thô đạt hơn 21,98 triệu tấn, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2023; Tiêu thụ thép thô nội bộ và xuất bán đạt 21,41 triệu tấn, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, chủ yếu xuất khẩu phôi dẹt (slab) đạt 2,783 triệu tấn, tăng 55% so với cùng kỳ 2023.
Sản xuất thép thành phẩm các loại đạt 29,443 triệu tấn, tăng 6,1%. Trong đó, sản xuất thép tôn mạ kim loại và sơn phủ màu đạt cao nhất là 23,1%, thép xây dựng tăng 10,1%, Ống thép tăng 3,5% và HRC là 1,5%; Duy nhất sản xuất thép cuộn cán nguội ghi nhận mức tăng trưởng âm là 19,4%.
Bán hàng thép thành phẩm đạt 29,09 triệu tấn, tăng 10,4% so với cùng kỳ. Trong đó, xuất khẩu thép thành phẩm năm 2024 đạt 8,042 triệu tấn, giảm nhẹ 0,6% so với cùng kỳ 2023; Trong đó tất cả các mặt hàng đều ghi nhận tăng trưởng trừ cuộn cán nóng giảm 33,8%.
Tổng thư ký kiêm Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam nhấn mạnh: "Có được kết quả như trên, ngoài sự nỗ lực của doanh nghiệp và người lao động trong ngành thép Việt Nam, là nhờ sự vào cuộc quyết liệt nhằm tháo gỡ khó khăn, khơi thông nguồn lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh của Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, cần ghi nhận sự nỗ lực, nhất là Bộ Công Thương trong việc đẩy mạnh xúc tiến thương mại, nâng cao hiệu quả công tác quản lý thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp các giải pháp tiến bộ kỹ thuật, nâng cao năng xuất, sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả, sử dụng linh hoạt và có hiệu quả các công cụ phòng vệ thương mại".
Cụ thể có thể kể đến như các quyết định khởi xướng điều tra chống bán phá giá tôn mạ và sơn phủ mầu, thép tấm cuộn cán nóng (HRC) và hiện đã có quyết định áp thuế tạm thời đối với một số sản phẩm thép cán nóng có xuất xứ từ Ấn Độ và Trung Quốc (460/QĐ-BCT ngày 21/2/2025), rà soát chống bán phá giá đối với thép hình nhập khẩu vào Việt Nam..., đồng thời ứng phó có hiệu quả với nhiều vụ kiện phòng vệ thương mại tại các thị trường xuất khẩu.
Tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với các nhà sản xuất thép
Mặc dù đã đạt được kết quả tích cực, tuy nhiên, theo các chuyên gia chỉ ra, sự hồi phục của ngành thép còn khá chậm và chưa đạt được kết quả của năm 2021. Cụ thể, sản xuất thép thô 95% (23 triệu tấn), sản xuất thép thành phẩm 89% (33 triệu tấn), bán hàng trong đó có xuất khẩu thép thành phẩm tương đương (29 triệu tấn). Ngoài ra, sự phục hồi của ngành còn chưa chắc chắn.
Theo đánh giá của các chuyên gia trong ngành, bên cạnh việc kế thừa sự phục hồi của năm 2024, năm 2025 công nghiệp thép tiếp tục phải đối mặt với các khó khăn thách thức như: Trung Quốc tiếp tục gia tăng xuất khẩu, khi thị trường nội địa yếu. Các nhà sản xuất thép Việt Nam đang đối mặt với nguy cơ mất thị trường nội địa, ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả và công ăn việc làm của người lao động.
Tình trạng cung vượt cầu của nhiều sản phẩm thép sản xuất trong nước, cùng với sự gia tăng mạnh mẽ của thép nhập khẩu sẽ gây ra sức ép cạnh tranh về giá thép thành phẩm và cạnh tranh trong thị trường nội địa sẽ trở nên khốc liệt hơn.
Đặc biệt, sự gia tăng tính bất ổn của thị trường thế giới, đứt gẫy chuỗi cung ứng, giá cước vận tải quốc tế… tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các nhà sản xuất thép. Bên cạnh đó, các yếu tố biến động đến giá nguyên nhiên vật liệu… chắc chắn sẽ làm tăng chi phí không nhỏ cho sản xuất thép.
Sự gia tăng tính bất ổn của thị trường thế giới, đứt gẫy chuỗi cung ứng, giá cước vận tải quốc tế… tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các nhà sản xuất thép. Ảnh: Moit
"Sự thay đổi chính sách thương mại của các nước lớn, đặc biệt các nước đều gia tăng các hàng rào kỹ thuật, tăng cường các biện pháp phòng vệ thương mại, lạm dụng chính sách liên quan đến biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh… làm công cụ và hàng rào ngăn cản thép nhập khẩu để bảo hộ sản xuất thép trong quốc gia và vùng lãnh thổ. Điều này sẽ là lực cản không nhỏ đối với việc xuất khẩu thép Việt Nam trong thời gian tới" - ông Thái nói.
Xúc tiến thương mại thúc đẩy xuất khẩu thép đến các thị trường mới
Theo đó, để ứng phó có hiệu quả đối với sự thay đổi chính sách thương mại của các nước lớn trong bối cảnh quốc tế hiện nay, bên cạnh các chính sách về ngoại giao, VSA đề xuất một số kiến nghị sau:
Một là, cơ quan quản lý nhà nước nhất là Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục nắm bắt, cập nhật thông tin, cảnh báo sớm cho doanh nghiệp và hiệp hội, giúp các doanh nghiệp sản xuất thép Việt Nam chủ động có kế hoạch ứng phó từ xa, từ sớm nhằm tìm ra các cơ hội và hạn chế các rủi ro đối với sự thay đổi chính sách thương mại của các nước lớn. Cụ thể là:
Các quyết định tiếp theo của Chính quyền Mỹ liên quan đến đối tượng và thời gian áp thuế, thời hạn hoãn áp thuế cho từng đối tượng theo Điều khoản 232 Đạo luật thương mại mở rộng của Mỹ năm 1962.
Đàm phán, cập nhật nội dung EU áp thuế các-bon đối với từng sản phẩm thép theo cơ chế CBAM và theo dõi thủ tục EC đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia được nhập khẩu phế liệu từ EU cảnh báo sớm cho các bên để bổ sung thủ tục (nếu cần).
Hai là, đẩy mạnh và nâng cao năng lực bảo vệ sản xuất trong nước, theo hướng chặt chẽ đầu vào, thông thoáng đầu ra cho các sản phẩm trong nước đã sản xuất được.
Trong đó, tìm hiểu chặt chẽ đầu vào, bao gồm: nâng cao năng xây dựng và áp dụng hàng rào kỹ thuật, thủ tục nhập khẩu đảm bảo yêu cầu của hàng rào kỹ thuật theo quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế; Nâng cao năng lực phòng vệ thương mại cho doanh nghiệp, trước mắt để giải quyết hiện trạng thép Trung Quốc đang cạnh tranh không công bằng tại thị trường Việt Nam, về trung và dài hạn là phòng ngừa thép của các nền kinh tế lớn cạnh tranh không lành mạnh tại thị trường Việt Nam.
Đặc biệt, theo VSA, cần đảm bảo thông thoáng đầu ra từ khâu tìm hiểu thị trường, giới thiệu sản phẩm thép sản xuất tại Việt Nam; Xúc tiến thương mại thúc đẩy xuất khẩu thép đến các thị trường mới; Tiếp tục đơn giản hóa các thủ tục xuất khẩu; Cảnh báo sớm và nâng cao năng lực ứng phó với các vụ việc phòng vệ thương mại do nước ngoài khởi xướng điều tra (đàm phán, trao đổi, trình bày lập luận, quan điểm của Việt Nam về kết luận của cơ quan điều tra, hỗ trợ tham vấn trong các phiên tham vấn công khai tại nước khởi kiện...) nhằm tạo lợi thế cạnh tranh của thép Việt Nam tại các thị trường truyền thống, khơi thông dòng chảy thép Việt Nam ra thị trường toàn cầu.
Đỗ Nga
Nguồn Công Thương : https://congthuong.vn/doanh-nghiep-thep-voi-loat-kho-khan-tu-thi-truong-xuat-khau-378481.html