Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thanh Hóa vừa khởi tố bị can, thi hành lệnh bắt tạm giam và khám xét chỗ ở, nơi làm việc đối với vợ chồng chủ tiệm vàng Kim Chung và 1 nhân viên là cháu ruột về tội "trốn thuế".
Quá trình điều tra xác định, từ năm 2020 đến nay, vợ chồng tiệm vàng Kim Chung đã chỉ đạo các nhân viên lập hàng chục tài khoản cá nhân để thực hiện giao dịch mua, bán vàng nhằm mục đích trốn thuế, bỏ ngoài sổ sách thu nhập của công ty, gây thiệt hại lớn cho nhà nước.
Thống kê doanh thu của công ty trong 5 năm (2020-2025) lên tới 5.000 tỉ đồng, nhưng mỗi tháng chỉ nộp thuế cho nhà nước khoảng 10 triệu đồng.
Điều này gióng lên hồi chuông cảnh báo về nguy cơ gian lận thuế của các doanh nghiệp kinh doanh vàng. Phóng viên Một Thế Giới đã có cuộc trao đổi với Luật sư Nguyễn Văn Tuấn, Giám đốc Công ty Luật TGS xoay quanh vấn đề này.
- Hiện nay nhiều doanh nghiệp kinh doanh vàng bị khởi tố và bắt giam vì tội trốn thuế với thủ đoạn tinh vi khi doanh thu là rất lớn, ông đánh giá thực trạng này ra sao, mức án các đơn vị này đối mặt là gì?
Luật sư Nguyễn Văn Tuấn: Việc hàng loạt doanh nghiệp kinh doanh vàng bị khởi tố và bắt giam vì hành vi trốn thuế cho thấy một thực trạng đáng báo động trong quản trị doanh nghiệp và tuân thủ pháp luật thuế.
Đây là lĩnh vực kinh doanh đặc thù, doanh thu lớn, giao dịch liên tục và thường xuyên phát sinh thanh toán bằng tiền mặt; vì vậy, nếu thiếu kiểm soát chặt chẽ, rất dễ xuất hiện hành vi gian lận.
Vợ chồng chủ tiệm vàng Kim Chung và 1 nhân viên bị khởi tố về tội "trốn thuế"
Nhiều vụ án gần đây cho thấy doanh nghiệp đã sử dụng các thủ đoạn tinh vi để che giấu doanh thu, từ việc ghi chép hai hệ thống sổ sách, sử dụng phần mềm kế toán nội bộ để làm sai lệch dữ liệu, cho đến việc xuất hóa đơn không phản ánh đúng thực tế.
Các hành vi này đều là dấu hiệu của tội “Trốn thuế” được quy định tại Điều 200 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Đáng chú ý, quy mô thiệt hại trong các vụ án này rất lớn, có trường hợp trốn thuế lên đến hàng trăm tỉ đồng. Khi có căn cứ xác định hành vi cố ý kê khai sai, che giấu thu nhập hoặc sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp nhằm giảm số tiền thuế phải nộp, doanh nghiệp và người đại diện theo pháp luật có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 200 BLHS, với mức hình phạt lên tới 7 năm tù đối với cá nhân và phạt tiền lên đến 10 tỉ đồng hoặc đình chỉ hoạt động đến 3 năm đối với pháp nhân thương mại.
Bên cạnh đó, hành vi trốn thuế còn đồng thời vi phạm các quy định tại Luật Quản lý thuế năm 2019, Nghị định 125/2020/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế và hóa đơn, cùng các quy định chuyên ngành về quản lý kinh doanh vàng theo Nghị định 24/2012/NĐ-CP.
Việc cơ quan điều tra và cơ quan thuế đồng loạt vào cuộc, khởi tố nhiều vụ án lớn gần đây là tín hiệu cho thấy Nhà nước đang siết chặt quản lý thị trường vàng theo hướng minh bạch và chuẩn hóa. Điều này không chỉ bảo đảm kỷ cương pháp luật mà còn góp phần tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh, bảo vệ các doanh nghiệp tuân thủ đúng quy định.
Tôi cho rằng đây là thời điểm các doanh nghiệp kinh doanh vàng cần đặc biệt chú trọng việc tuân thủ pháp luật thuế. Mọi hành vi gian lận dù tinh vi đến đâu, nếu bị phát hiện đều phải chịu trách nhiệm hình sự nghiêm khắc theo Điều 200 BLHS và các văn bản liên quan.
Đồng thời, các cơ quan quản lý cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm tra, ứng dụng dữ liệu lớn và tăng cường giám sát chuyên đề để ngăn ngừa vi phạm ngay từ giai đoạn đầu. Một thị trường vàng minh bạch chỉ có thể được thiết lập khi cả Nhà nước và doanh nghiệp cùng hành động đúng pháp luật, đúng trách nhiệm.
- Theo ông, lỗ hỗng nằm ở đâu khi doanh nghiệp kinh doanh vàng có thể trốn thuế với số tiền rất lớn và trong thời gian dài?
Luật sư Nguyễn Văn Tuấn: Việc nhiều doanh nghiệp kinh doanh vàng có thể trốn thuế với số tiền rất lớn và trong thời gian dài cho thấy các lỗ hổng pháp lý – quản lý mang tính hệ thống, không phải sai sót đơn lẻ. Có thể nhận diện rõ một số điểm sau:
Trước hết, lỗ hổng lớn nhất nằm ở công tác quản lý dữ liệu doanh thu và hóa đơn điện tử. Dù Luật Quản lý thuế 2019 và Nghị định 123/2020/NĐ-CP đã quy định chặt chẽ về hóa đơn điện tử, nhưng nhiều doanh nghiệp vàng vẫn có thể sử dụng phần mềm bán hàng nội bộ để ghi nhận hai hệ thống doanh thu khác nhau, hoặc thậm chí tạo ra “giao dịch ảo” nhằm hợp thức hóa đầu vào – đầu ra.
Việc chưa có cơ chế đối soát tự động, theo thời gian thực giữa dữ liệu bán hàng của doanh nghiệp với cơ quan thuế khiến việc phát hiện sai phạm gặp nhiều khó khăn.
Luật sư Nguyễn Văn Tuấn, Giám đốc Công ty Luật TGS
Bên cạnh đó, đặc thù của thị trường vàng là lượng giao dịch tiền mặt rất lớn, giá trị cao nhưng khó truy vết. Đây chính là môi trường lý tưởng để doanh nghiệp giấu doanh thu.
Hiện pháp luật chưa bắt buộc các giao dịch vàng miếng, vàng trang sức có giá trị lớn phải thanh toán qua ngân hàng; điều này khiến cơ quan thuế không thể kiểm soát dòng tiền và đối chiếu với số liệu doanh nghiệp báo cáo. Lỗ hổng này vô hình trung tạo điều kiện để một số chủ cơ sở thao túng số liệu trong thời gian dài.
Một lỗ hổng quan trọng khác nằm ở công tác thanh tra - kiểm tra thuế, vốn được thực hiện chủ yếu theo kế hoạch định kỳ hoặc khi có dấu hiệu bất thường. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp vàng - lĩnh vực có doanh thu khổng lồ và biến động phức tạp - việc chỉ kiểm tra theo kế hoạch là chưa đủ.
Việc thiếu các cuộc kiểm tra chuyên đề, kiểm tra đột xuất hoặc phân tích rủi ro bằng dữ liệu lớn khiến hành vi gian lận dễ dàng qua mặt trong nhiều năm.
Ngoài ra, sự phối hợp giữa cơ quan thuế - cơ quan công an - ngân hàng chưa thật sự nhịp nhàng. Dữ liệu dòng tiền, mua bán vàng, lượng hàng tồn kho và hóa đơn điện tử lẽ ra phải được chia sẻ nhanh chóng để đối chiếu. Nhưng thực tế, nhiều vụ chỉ được phát hiện khi cơ quan điều tra vào cuộc hoặc khi xảy ra các dấu hiệu bất thường nghiêm trọng.
Điều này cho thấy cần có một cơ chế phối hợp liên ngành thường xuyên hơn, bài bản hơn, với quy trình chia sẻ dữ liệu tự động.
Cuối cùng, phải thừa nhận rằng hệ thống pháp lý về kinh doanh vàng (Nghị định 24/2012/NĐ-CP) đã lạc hậu so với thực tế vận hành thị trường hiện nay.
Quy định quản lý chủ yếu tập trung vào vàng miếng và thương hiệu quốc gia SJC, trong khi hoạt động mua bán vàng trang sức, vàng nguyên liệu lại rất sôi động nhưng rủi ro cao. Chưa có cơ chế kiểm soát dòng nguyên liệu, sản xuất - tiêu thụ - tồn kho, khiến doanh nghiệp dễ lợi dụng để “xoay vòng” hóa đơn hoặc che giấu doanh thu thật.
Tổng thể, lỗ hổng không chỉ nằm ở một điều luật hay một cơ quan, mà là sự kết hợp của hạn chế trong pháp luật, kỹ thuật quản lý và cơ chế phối hợp. Khi cả ba yếu tố này đều chưa hoàn thiện, hành vi trốn thuế tất yếu sẽ tồn tại và kéo dài. Đây cũng là lý do thời gian gần đây, khi cơ quan tố tụng vào cuộc mạnh mẽ, những sai phạm được phanh phui với quy mô lớn và tính chất đặc biệt nghiêm trọng.
- Vậy theo ông, đâu là giải pháp khắc phục tình trạng này?
Luật sư Nguyễn Văn Tuấn: Để khắc phục triệt để tình trạng gian lận thuế trong kinh doanh vàng - vốn đã diễn ra nhiều năm và gây thất thu ngân sách lớn - cần triển khai một hệ thống giải pháp đồng bộ, có chiều sâu và mang tính cải cách.
Trước hết, Nhà nước cần sớm sửa đổi, thay thế Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý thị trường vàng, vốn đã bộc lộ nhiều bất cập so với thực tế giao dịch hiện nay. Khung pháp lý mới phải mở rộng phạm vi quản lý không chỉ với vàng miếng mà cả vàng nguyên liệu, vàng trang sức - những mảng hoạt động đang bị lợi dụng mạnh nhất để xoay vòng hóa đơn hoặc che giấu doanh thu.
Cơ quan công an khám xét tiệm vàng Kim Chung
Ngoài ra, phải quy định rõ ràng về truy xuất nguồn gốc, định mức tiêu hao nguyên liệu, theo dõi tồn kho và sản lượng thực tế, tránh việc doanh nghiệp dùng “giao dịch khống” để hợp thức hóa sổ sách.
Tiếp theo, cần bắt buộc thanh toán qua ngân hàng đối với giao dịch vàng có giá trị lớn. Khi dòng tiền được minh bạch và để lại dấu vết, cơ quan thuế sẽ dễ dàng đối chiếu doanh thu kê khai với dòng tiền thực tế.
Đây là giải pháp từng được nhiều quốc gia áp dụng trong các lĩnh vực rủi ro cao để chống trốn thuế và rửa tiền, đồng thời phù hợp định hướng của Luật Phòng chống rửa tiền. Nếu không hạn chế giao dịch tiền mặt, mọi biện pháp quản lý khác đều khó đạt hiệu quả.
Cơ quan thuế cần ứng dụng công nghệ số và dữ liệu lớn (Big Data) trong quản lý doanh thu của doanh nghiệp vàng. Dữ liệu hóa đơn điện tử, dữ liệu bán hàng, lượng nhập – xuất – tồn kho phải được truyền tự động theo thời gian thực về hệ thống của cơ quan thuế.
Khi có cơ chế đối chiếu xuyên suốt như vậy, doanh nghiệp sẽ không thể vận hành hai hệ thống sổ sách hoặc dùng phần mềm nội bộ để thao túng số liệu như thời gian qua.
Bên cạnh đó, cần nâng cao chất lượng công tác thanh tra – kiểm tra, chuyển từ kiểm tra định kỳ sang kiểm tra dựa trên phân tích rủi ro.
Những doanh nghiệp có tỷ lệ xuất hóa đơn thấp bất thường, doanh thu biến động không tương ứng với thị trường, hoặc tồn kho chênh lệch so với nguyên liệu đầu vào phải được đưa vào diện giám sát đặc biệt. Đây là cách giúp phát hiện sớm sai phạm trước khi hình thành hành vi trốn thuế với quy mô lớn.
Một giải pháp quan trọng nữa là tăng cường cơ chế phối hợp liên ngành giữa cơ quan thuế, công an kinh tế, ngân hàng, hải quan và quản lý thị trường. Khi các cơ quan chia sẻ dữ liệu nhanh chóng và minh bạch, doanh nghiệp sẽ không còn khoảng trống để che giấu dòng tiền, nguồn gốc vàng hay hóa đơn đầu vào – đầu ra. Cơ chế phối hợp này cần được thể chế hóa bằng quy chế liên ngành, thay vì chỉ phối hợp khi có vụ việc phát sinh.
Cuối cùng, cần chú trọng tăng ý thức tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp. Cơ quan quản lý không chỉ siết chặt kiểm soát mà còn phải đẩy mạnh hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc xây dựng hệ thống kế toán – thuế minh bạch, áp dụng công nghệ quản trị mới.
Khi doanh nghiệp nhận thức được rằng trốn thuế không chỉ là hành vi vi phạm mà còn gây rủi ro hình sự theo Điều 200 Bộ luật Hình sự, họ sẽ có động lực tuân thủ tốt hơn.
Nếu các giải pháp này được triển khai nhất quán, tình trạng trốn thuế trong kinh doanh vàng sẽ từng bước được đẩy lùi, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh và bảo đảm nguồn thu ngân sách nhà nước một cách bền vững.
Xin cảm ơn ông!
Lam Thanh (thực hiện)