Bia hộp cổ bằng đá trong cụm di tích đền, chùa Kim Lộc
Đền Kim Lộc (còn gọi là Đền Tru) và chùa Kim Lộc ( còn gọi là Kim Lộc tự) ở thị trấn Phú Thái (Kim Thành) được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh ngày 25/1/2014.
Cụm di tích nằm trên diện tích rộng hơn 1.203,7 m2. Đền Kim Lộc thờ thành hoàng làng là Phạm Cảnh Lương, đệ nhị giáp tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1469), có công giúp vua Lê Thánh Tông đánh thắng quân Chiêm Thành ở đất Quảng Nam, được phong Thiếu bảo Liên khê hầu và bà Phạm Thị Quý (Quỳnh Phương Tiên Phi công chúa), chị gái của tiến sĩ Phạm Cảnh Lương. Ngoài ra, đền Kim Lộc còn có ban thờ Mẫu.
Chùa Kim Lộc là nơi thờ Phật theo phái Đại Thừa, một thiền phái phổ biến tại các ngôi chùa ở miền Bắc Việt Nam.
Cổng vào cụm đền, chùa Kim Lộc ở thị trấn Phú Thái
Đặc biệt, cụm di tích này đang lưu giữ bia đá hình hộp do chính tay tiến sĩ Phạm Cảnh Lương biên soạn, đặt tại mộ của chị gái mình là Quỳnh Phương Tiên Phi công chúa Phạm Thị Quý hay còn gọi là Bà chúa. Bà là người có công nuôi dạy và có ảnh hưởng lớn đến nhân cách, con người tiến sĩ Phạm Cảnh Lương.
Bia gồm 2 tấm có gờ chồng khít vào nhau. Tấm số 1 cao 59,5 cm, rộng 42 cm, dày 7 cm, hình chữ nhật đứng, dẹt, xung quanh thành cao, trơn không hoa văn, lòng bia trũng hình máng, không mài nhẵn.
Ở chính giữa khắc dòng chữ Hán, nội dung: "Hoàng Việt Kinh Bắc Thừa Ty lại thê Phạm thị chi mộ" nghĩa là “Mộ của bà họ Phạm là vợ của quan lại Thừa Ty Kinh Bắc thời Hoàng Việt”.
Bia hộp cổ bằng đá có hình dáng độc đáo, hiếm có, nội dung khắc chữ Hán, được chạm khắc năm 1502
Tấm thứ 2 cao 59 cm, rộng 42,5 cm, lòng bia nổi, xung quanh sâu xuống 2 cm. Phía trên tấm bia khắc chữ có nội dung: "Tiền Kinh Bắc Thừa Ty lại Liên Hồ tiên sinh Lê thị thê mộ chí", nghĩa là “Mộ chí vợ Quan Thừa Ty Lại Kinh Bắc Liên Hồ tiên sinh họ Lê”.
Bia khắc vào năm 1502 có khoảng 700 chữ Hán. Nội dung tấm bia nói về thân thế, cuộc đời, sự nghiệp và ca ngợi đức độ, phẩm hạnh bà Phạm Thị Quý từ khi còn nhỏ đến khi lập gia đình và mất đi.
Qua lời văn cũng có thể xem là lời khóc thương của tiến sĩ Phạm Cảnh Lương đối với chị gái của mình, thấy được phẩm chất, đức hạnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam xưa “công, dung, ngôn, hạnh”.
Trong đó có đoạn, được nhà nghiên cứu lịch sử Tăng Bá Hoành dịch là: “Thật cảm động cho khí thiêng từ thuở sinh ra cho đến lúc qua đời, chị đã răn dạy ta rất nhiều, để lại thật đầy đủ lòng hiếu thảo với cha mẹ đã báo đáp theo phận sự. Than ôi! Thật nhớ thương thay. Không biết trời có nhẫn tâm mà cướp chị ta đi chăng? Chị hãy nhẫn nại và phảng phất qua đây. Ta viết vào đá để ghi thấu tận trời những điều thương nhớ mãi mà những kẻ không được giáo dục sẽ không thể hiểu được những lời này”.
Đền thờ tiến sĩ Phạm Cảnh Lương
Bà Phạm Thị Quý có công nuôi dạy, động viên khuyến khích tiến sĩ Phạm Cảnh Lương đèn sách. Về sau ông đỗ đạt cao, có nhiều công danh. Lời văn của tấm bia mộc mạc mà thấm đẫm tình người, thể hiện niềm tiếc thương và biết ơn vô hạn của một người em đối với chị.
Lời khóc chị của ông cũng như là lời nhắc nhở chính mình sống sao cho thật tốt, để xứng đáng với dòng tộc, với người chị đã yêu thương mình hết dạ, hết lòng.
Nội dung nói về bà Phạm Thị Quý nhưng đọc lên chúng ta thấy được con người, sự nghiệp, nhân cách, đức độ của tiến sĩ Phạm Cảnh Lương. Những lời răn dạy của người chị gái đối với ông khuyên phải giữ mình, chuyên cần học tập. Làm quan chớ có tham lam; trong đời thường thì chớ có kiêu căng, mắng nhiếc, hại người...
Lời dịch nội dung trong bia của ông Tăng Bá Hoành, Chủ tịch Hội Sử học Hải Dương
Tấm bia là một trong những loại hình bia ký hiếm có thời Lê còn tồn tại đến ngày nay, có giá trị cao về mặt niên đại, tư liệu lịch sử và văn hóa. Thông qua hai tấm bia đá này mà lịch sử nhân vật được thờ tại di tích đền, chùa Kim Lộc được sáng tỏ. Con người và nhân cách của nhân vật được tôn thờ càng được khẳng định.
Những lời căn dặn, nhắn nhủ, khuyên bảo mà người chị gái dành cho Phạm Cảnh Lương đến nay đọc và suy ngẫm vẫn còn nguyên giá trị.