Vừa qua, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam nhận được phản ánh của độc giả, bày tỏ băn khoăn về một số thông tin liên quan đến số lượng, nội dung bài báo khoa học của Tiến sĩ khoa học Bùi Quốc Bảo (ứng viên phó giáo sư ngành Xây dựng tại Hội đồng Giáo sư liên ngành Xây dựng-Kiến trúc năm 2025; đơn vị công tác tại Trường Đại học Tôn Đức Thắng).
Để đảm bảo thông tin khách quan, phóng viên đã liên hệ với Tiến sĩ khoa học Bùi Quốc Bảo, trao đổi về nội dung phản ánh nêu trên.
Tiến sĩ khoa học Bùi Quốc Bảo (ứng viên phó giáo sư ngành Xây dựng tại Hội đồng Giáo sư liên ngành Xây dựng-Kiến trúc năm 2025; đơn vị công tác tại Trường Đại học Tôn Đức Thắng). Ảnh: NVCC.
Lý do ứng viên không kê khai 23 bài báo khoa học
Theo bản đăng ký xét công nhận chức danh phó giáo sư ký ngày 18/06/2025, Tiến sĩ khoa học Bùi Quốc Bảo sinh năm 1981, quê tại Quảng Ngãi.
Hiện, Tiến sĩ khoa học Bùi Quốc Bảo là Phó Trưởng Bộ môn Xây dựng, Khoa Kỹ thuật công trình, Trường Đại học Tôn Đức Thắng.
Theo đó, ứng viên được cấp bằng đại học ngày 20/4/2004 ngành Kỹ thuật Xây dựng (chuyên ngành Xây dựng Dân dụng và Công nghiệp) tại Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 02/02/2006, ứng viên được cấp bằng thạc sĩ ngành Xây dựng (chuyên ngành Xây dựng) tại Trường Quốc gia về Xây dựng Nhà nước (Ecole Nationale des Travaux Publics de l’Etat - ENTPE) Lyon, Pháp.
Đến ngày 05/5/2009, thầy Bảo được cấp bằng tiến sĩ ngành Xây dựng (chuyên ngành Xây dựng) tại Viện Quốc gia về Khoa học ứng dụng (Institut National des Sciences Appliqués de Lyon - INSA Lyon), Pháp.
Ứng viên được cấp bằng tiến sĩ khoa học ngày 19/3/2024 ngành Xây dựng (chuyên ngành Xây dựng) tại Đại học Lyon 1, Pháp.
Thầy Bảo đã được bổ nhiệm/công nhận chức danh phó giáo sư (Maitre de Conferences) tại Đại học Savoie Mont Blanc (Chambery, Pháp) từ ngày 01/9/2011; sau đó được bổ nhiệm chức vụ chuyên môn phó giáo sư (Associate Professor) ngành Xây dựng tại Trường Đại học Tôn Đức Thắng từ tháng 11/2017 (theo tiêu chuẩn riêng của Trường Đại học Tôn Đức Thắng).
Về quá trình công tác: Từ tháng 11/2008 đến tháng 8/2011: ứng viên nghiên cứu sau tiến sĩ (Postdoc) và trợ giảng tại Đại học Quốc gia Công chánh (Ecole Nationale des Travaux Publics de l’Etat - ENTPE), Lyon, Pháp.
Từ tháng 9/2011 đến tháng 8/2016: ứng viên là phó giáo sư (Maitre de Conferences) tại Đại học Savoie Mont Blanc, Chambery, Pháp.
Từ tháng 9/2016 đến nay, thầy Bảo là giảng viên Khoa Kỹ thuật công trình, Trường Đại học Tôn Đức Thắng.
Qua tìm hiểu, độc giả bày tỏ băn khoăn khi ứng viên đã không kê khai 23 bài báo quốc tế uy tín thuộc danh mục SCIE (WoS) tại bản đăng ký xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh phó giáo sư năm 2025.
Điều đáng nói, tất cả 23 bài báo này có nội dung sát với liên ngành Hóa-Dược hơn là liên ngành Xây dựng-Kiến trúc.
Ngoài ra, 23 bài báo này được công bố dồn dập từ 2019-2021, sau đó, không có một bài báo nào có nội dung tương tự được công bố.
Danh sách 23 bài báo khoa học mà độc giả phản ánh. Ảnh chụp màn hình.
Phản hồi những thông tin mà độc giả phản ánh, Tiến sĩ khoa học Bùi Quốc Bảo đã tóm lược quá trình công tác của bản thân: Hoàn thành luận án tiến sĩ năm 2008 tại Trường ENTPE Lyon và tiếp tục ở lại ENTPE Lyon làm Post-doc (nghiên cứu sau tiến sĩ) và trợ giảng. Năm 2011, thi đậu trong kỳ thi tuyển quốc gia của Pháp để vào vị trí phó giáo sư (Maitre de Conferences) ở Đại học Savoie Mont Blanc, Pháp, giai đoạn tập sự. Từ tháng 9/2012, ông là phó giáo sư chính thức, thuộc biên chế của Bộ Giáo dục và Nghiên cứu Pháp, và công tác tại Đại học Savoie Mont Blanc.
Từ tháng 9/2016, ứng viên chuyển về công tác tại Trường Đại học Tôn Đức Thắng theo diện chuyên gia. Tháng 11/2017, Trường Đại học Tôn Đức Thắng tổ chức thi tuyển (theo quy chế riêng của trường vào thời điểm đó) và ứng viên được bổ nhiệm vào vị trí “Associate Professor” (“phó giáo sư”). Sau này, quy chế của trường có thay đổi, nên năm nay, ứng viên đăng ký xét công nhận chức danh phó giáo sư của Nhà nước.
Tiến sĩ khoa học Bùi Quốc Bảo cho biết: “Trong giai đoạn 2014-2020, ngoài các hướng nghiên cứu thuần túy của ngành xây dựng truyền thống (Vật liệu và kết cấu), tôi quan tâm đến một số hướng nghiên cứu mới, trong đó liên quan đến năng lượng mới và vật liệu nano. Các bài báo mà độc giả quan tâm nằm trong trong các hướng nghiên cứu này, cụ thể:
Năng lượng hydrogen: khi tôi công tác ở Đại học Savoie Mont Blanc, Pháp (2011-2016), Phòng thí nghiệm của chúng tôi nằm chung với Viện quốc gia Năng lượng mặt trời (INES, Institut National de l'Énergie Solaire), thuộc Ủy ban Năng lượng Nguyên tử và Năng lượng Tái tạo của Pháp (CEA, Commissariat à l'Énergie Atomique et aux Énergies Alternatives). Các hướng nghiên cứu về công trình hiệu quả năng lượng, năng lượng tái tạo được quan tâm phát triển. Ngoài các năng lượng tái tạo phổ biến như năng lượng mặt trời và năng lượng gió, năng lượng hydro (Hydrogen) là một trong những nguồn năng lượng tái tạo tiềm năng được quan tâm.
Ý tưởng ban đầu là dùng năng lượng dư thừa khi không sử dụng của năng lượng mặt trời, năng lượng gió để tạo ra hydro và lưu trữ (vì khó khăn lớn nhất hiện nay với năng lượng tái tạo là vấn đề lưu trữ). Sau đó, nhiều cách tiếp cận khác ứng dụng năng lượng hydro cũng đã được nghiên cứu. Tôi có quan tâm và có hợp tác với một số đồng nghiệp trong hướng nghiên cứu về năng lượng hydrogen, với các phương pháp tách hydro từ nước và tách từ methane.
Vật liệu nano: Trong quá trình nghiên cứu về năng lượng hydrogen, nhóm nghiên cứu nhận thấy hiệu quả và tiềm năng to lớn từ các vật liệu nano. Ngoài lĩnh vực năng lượng hydrogen, các vật liệu mới này có tiềm năng ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác, từ điện tử, y tế, vật liệu xây dựng, vật liệu cho các thiết bị... Các bài báo nói trên đề cập đến các ứng dụng vật liệu nano trong nâng cao hiệu năng của việc tách hydro (nói trên), trong việc phát hiện một số chất ảnh hưởng đến sức khỏe (cảm biến sinh học, ứng dụng cho y tế). Các ứng dụng của vật liệu nano cho ngành Xây dựng đã được ứng viên đưa vào trong hồ sơ”.
Ứng viên cũng chia sẻ lý do không kê khai các bài báo trên trong hồ sơ rằng: “Trong buổi Tập huấn hướng dẫn cách điền hồ sơ do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức, ứng viên có được nghe hướng dẫn là chỉ cần kê khai các thông tin đủ với các yêu cầu, không cần kê nhiều hơn mức quy định, gây khó khăn cho người xét hồ sơ.
Trường hợp của tôi - đã tốt nghiệp tiến sĩ từ năm 2008, từ đó đến nay, có nhiều hướng nghiên khác nhau. Yêu cầu của Mẫu số 3 về tổng hợp các hướng nghiên cứu là không quá 10 trang. Hai hướng nghiên cứu nêu trên có liên quan về chuyên ngành hóa-lý, do đó, tôi không kê khai vào hồ sơ, chỉ tập trung vào các hướng nghiên cứu liên quan trực tiếp đến chuyên ngành Xây dựng”.
Tiến sĩ khoa học Bùi Quốc Bảo cũng thông tin thêm: “Trong quá trình công tác tại Đại học Savoie Mont Blanc, chủ trương chung của Vùng (Region, cao hơn cấp tỉnh) là phát triển các nghiên cứu liên ngành, đồng thời khuyến khích sự kết hợp trong nghiên cứu giữa các cơ sở đại học (ở đây là Đại học Savoie Mont Blanc) và các Trung tâm nghiên cứu ứng dụng (ở đây là CEA - Ủy ban Năng lượng Nguyên tử và Năng lượng Tái tạo của Pháp). Vùng đã bố trí phòng thí nghiệm (lab) của chúng tôi chung khu vực (campus) và chung tòa nhà với CEA, khuyến khích chúng tôi tiến hành các nghiên cứu liên ngành để đáp ứng bối cảnh mới của xã hội.
Trong bối cảnh phát triển bền vững, cụm từ “net-zero” hay được đề cập. Một trong những ngành có tác động đến môi trường, thải nhiều khí thải chính là ngành Xây dựng. Khi nói về “net-zero”, cần phải đánh giá trên toàn bộ vòng đời công trình (“Life cycle Assessment”), nghĩa là việc tiêu thụ năng lượng, phát thải khí nhà kính từ quá trình khai thác nguyên liệu từ nguồn, quá trình vận chuyển nguyên liệu về nhà máy, sản xuất ra vật liệu, chở đến công trường…; rồi đến giai đoạn sử dụng công trình (bóng đèn, quạt, máy lạnh, máy sưởi…); rồi giai đoạn phá dỡ công trình ở cuối vòng đời (cần tái sử dụng, tái chế…).
Do đó, muốn một công trình có “ròng bằng không” (“net-zero”), ngoài việc tiêu thụ hiệu quả năng lượng (bằng các giải pháp vật liệu, kiến trúc, kết cấu, thông gió-chiếu sáng…), việc sử dụng năng lượng tái tạo là bắt buộc, để bù vào năng lượng tiêu thụ trong cả vòng đời công trình.
Trong số các năng lượng tái tạo, hydrogen đã và đang được nghiên cứu và phát triển, vì nó tiềm năng cho “năng lượng của tương lai”. Việc tạo ra hydrogen “xanh”, hiệu quả liên quan nhiều đến việc ứng dụng các vật liệu nano.
Từ đó, việc nghiên cứu vật liệu nano là cần thiết. Và khi nghiên cứu các vật liệu nano, tiềm năng ứng dụng của các vật liệu này là rất lớn, trong nhiều lĩnh vực.
Ngoài các lĩnh năng lượng, vật liệu xây dựng, thì vật liệu nano cũng có tiềm năng ứng dụng trong các lĩnh vực điện tử, y học. Do đó, mặc dù nói rằng, các bài báo trên liên quan nhiều đến lĩnh vực hóa-lý, tuy nhiên, xét ở góc độ nghiên cứu liên ngành (là xu hướng chung trên thế giới từ nhiều năm qua), có thể thấy được sự liên hệ và logic giữa các hướng nghiên cứu”.
Về số lượng các bài báo được công bố dồn dập trong giai đoạn 2019-2021, ứng viên lý giải: “Nhiều nghiên cứu đã được bắt đầu trong khoảng thời gian tôi ở Pháp, trước khi về Việt Nam. Sau đó, khi tôi về Việt Nam, các đồng nghiệp tiếp tục nghiên cứu.
Thời gian đầu, khi tôi mới về Việt Nam, do còn phải thích nghi với môi trường sống và làm việc trong nước, bận rộn với một số công việc khác như việc soạn bài giảng dạy, việc sửa luận án cho hai nghiên cứu sinh mà tôi đồng hướng dẫn (lúc đó còn ở bên Pháp, các em bảo vệ luận án vào các năm 2017 và 2018), tôi chưa có đủ thời gian để thúc đẩy công bố các kết quả đã có trước đó.
Vì vậy, tuy các công bố này được tập trung trong thời gian mấy năm, nhưng là kết quả của một quá trình nhiều năm trước đó.
Từ sau Covid-19, tôi định hướng nghiên cứu những vấn đề có thể áp dụng cho Việt Nam trong ngắn hạn và trung hạn. Từ năm 2022 đến nay, tôi vẫn đang tiến hành nghiên cứu và có những công bố về ứng dụng vật liệu nano trong vật liệu xây dựng.
Các năm qua, tôi vẫn đồng hành cùng một công ty khởi nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh trong việc phát triển vật liệu nano và ứng dụng vào nhiều lĩnh vực, trong đó có ngành xây dựng.
Ngoài ra, cùng với việc ngành Xây dựng vừa ra nhiều phiên bản mới (cập nhật) của các tiêu chuẩn chuyên ngành, tôi cũng dành thời gian viết sách chuyên ngành, để phục vụ cho công tác giảng dạy, cũng như phục vụ cho nhu cầu của sinh viên, kỹ sư trong nước. Khi xuất bản các sách này, tôi cảm nhận mình có thể đóng góp trực tiếp cho ngành và cho xã hội. Việc viết các sách này cũng mất nhiều thời gian, làm giảm thời gian viết báo khoa học”.
Độc giả băn khoăn về số lượng bài báo khoa học, 37 bài trong 3 năm
Bên cạnh đó, theo phản ánh của độc giả, đối với số lượng bài báo khoa học được kê khai trong bản đăng ký, gồm: Có 3 bài báo khoa học được đăng tải trên tạp chí ISI trong năm 2009 (trước khi được công nhận tiến sĩ). Có tổng số 53 bài báo khoa học được đăng tải sau khi được công nhận tiến sĩ (từ năm 2011 đến nay); trong đó, có 29 bài báo khoa học đăng trên tạp chí khoa học quốc tế uy tín mà ứng viên là tác giả chính.
Đáng chú ý, số lượng các bài báo khoa học được công bố qua các năm chi tiết như sau: Năm 2011 (1 bài); năm 2014 (6 bài); năm 2016 (3 bài); năm 2017 (7 bài); năm 2018 (9 bài); năm 2019 (5 bài); năm 2020 (5 bài); năm 2021 (5 bài); năm 2022 (7 bài); năm 2023 (2 bài); năm 2024 (2 bài); năm 2025 (1 bài).
Số lượng bài báo khoa học được kê khai trong bản đăng ký công nhận chức danh phó giáo sư năm 2025 của Tiến sĩ khoa học Bùi Quốc Bảo. Biểu đồ: Hồng Lam.
Như vậy, nếu tính cả số lượng bài báo không được kê khai trong bản đăng ký này, số lượng bài báo công bố trong giai đoạn 2019-2021 là 23+15=37 bài báo (trong 3 năm).
Độc giả bày tỏ băn khoăn về số lượng bài báo khoa học của ứng viên qua các năm 2014, 2017, 2018 với (6,7,9 bài báo). Đặc biệt, đối với giai đoạn 2019-2021, trong 3 năm đã công bố tổng số 37 bài báo.
Về nội dung này, Tiến sĩ khoa học Bùi Quốc Bảo chia sẻ: “Khi tôi làm việc ở Pháp, các đại học và các nhà nghiên cứu tại châu Âu khuyến khích các nghiên cứu có tầm ảnh hưởng lớn, và không bắt buộc về mặt số lượng công bố.
Các công bố sẽ có thể thay đổi tùy vào từng điều kiện, ví dụ khi có các dự án để mua máy móc, vật liệu, khi có nghiên cứu sinh tiến sĩ, khi có nghiên cứu sinh sau tiến sĩ…
Khi nào kết quả “chín muồi” thì công bố, không bắt buộc phải đều theo từng năm. Những người làm nghiên cứu đều hiểu, thỉnh thoảng các hướng nghiên cứu có thể có những “điểm nghẽn”, không tiến triển được, nhưng khi các “tắc nghẽn” này được đả thông, thì kết quả sẽ có nhiều.
Thông thường, các giảng viên ở các đại học trên thế giới xây dựng được đội ngũ làm việc chung, do đó, các công bố là kết quả làm việc chung của nhiều cá nhân.
Vì vậy, khi tính số lượng cho một cá nhân thì lớn, nhưng chia cho nhiều cá nhân tham gia, thì cũng là trường hợp hay gặp ở những nhà nghiên cứu ở tầm “Team Leader” trở lên. Đặc biệt, như đã nói ở trên, các kết quả này là của một quá trình nhiều năm trước đó”.
Hồng Lam