Nghề độc trăm năm
Theo các cụ cao niên trong làng, thời kỳ hoàng kim nghề làm giấy dó tại xóm 3, xã Nghi Phong, huyện Nghi Lộc có hàng trăm hộ dân tham gia. Tuy nhiên, với sự phát triển của xã hội và công nghệ, nghề làm giấy dó cũng dần mai một. Đến nay, chỉ còn rất ít hộ tại xã ven đô này bám nghề.
Giấy dó được làm từ cây có từ hàng trăm năm nay tại xã Nghi Phong.
Là người làm nghề giấy dó từ lúc còn nhỏ, năm nay bà Trương Thị Hải trú xóm 3, xã Nghi Phong bước sang tuổi 60 cho biết, khi thịnh vượng có đến hàng trăm hộ dân làm nghề, nhiều gia đình dựng được nhà, nuôi con ăn học từ nghề này.
“Thời kỳ ấy, nghề làm giấy dó rộn ràng khắp cả làng, khi nắng lên, khuôn làm giấy dó được phơi khắp nơi, nhộn nhịp, tiếng chày vang khắp mọi ngõ ngách. Khách mua giấy dó từ mọi nơi đổ về, lúc nào cũng nhộn nhịp cảnh mua bán”, bà Hải nhớ lại.
Thành phần chủ yếu để làm nên một tờ giấy dó là từ cây niệt, một loại chỉ có ở trên rừng thuộc các huyện vùng cao Nghệ An như huyện Quế Phong, Quỳ Châu, Kỳ Sơn, Tương Dương và Hà Tĩnh.
Tuy nhiên, hiện tại, Nghi Phong chỉ còn lại 6 hộ gia đình làm giấy dó. “Con cháu không theo nghề nữa vì làm giấy dó vất vả mà thu nhập không cao. Hai vợ chồng tôi làm là để giữ nghề truyền thống cha ông để lại", bà Hải tâm sự.
Để có nguyên liệu làm giấy dó, hai ông bà phải đi khắp nơi có khi ra tận huyện Quỳnh Lưu hoặc sang tỉnh Hà Tĩnh để chặt cây niệt mang về. Đây cũng là nguyên liệu chính để sản xuất giấy dó. Việc tạo ra các tờ giấy dó được thực hiện theo quy trình cụ thể, theo bà Hải, đầu tiên phải cạo bỏ lớp vỏ đen bên ngoài, tách vỏ cây ra khỏi thân.
Sau đó, tước từng sợi mỏng như tờ giấy và cho vào nồi nước vôi nấu liên tục hơn 1 ngày để những vỏ cây này trở nên mềm hơn. Sau khi luộc kỹ, vỏ cây niệt được vớt ra và dùng chày giã mạnh để lấy bột, phần bột này được hòa vào nước để tráng lên khuôn, sau đó mang đi phơi nắng mới tạo ra được những tấm giấy dó. Tất cả các công đoạn đều được làm hoàn toàn bằng thủ công, không sử dụng bất kỳ hóa chất nào. Công đoạn cuối cùng là đem ra phơi. Phải chọn ngày nắng to thì giấy dó mới trắng đều, mịn.
Sau khi cạo đi lớp vỏ lụa bên ngoài, tách lấy phần thịt, vứt phần lõi cứng bên trong, phần thịt đã chọn sẽ được tước mỏng ra nhồi với nước vôi đặc rồi nấu trong một ngày.
Ông Nguyễn Văn Ngại, xóm trưởng xóm 3 (sau khi sáp nhập xóm Phong Phú), xã Nghi Phong cho biết: Là vùng sản xuất giấy dó duy nhất trên địa bàn tỉnh, đó là niềm vinh dự, tự hào nhiều năm nay của người dân địa phương. Nhưng đến nay làng nghề đã mai một và có nguy cơ biến mất. Từ hơn 100 hộ làm nghề, đến nay toàn xóm chỉ còn các gia đình: ông Hà, bà Hường, ông Trị, ông Tâm, ông Phong, ông Sơn làm giấy dó.
Sau khi luộc kỹ, vỏ cây niệt được vớt ra và dùng chày giã mạnh để lấy bột, phần bột này được hòa vào nước để tráng lên khuôn, sau đó mang đi phơi nắng mới tạo ra được những tấm giấy dó.
Theo ông Ngại, có 3 nguyên nhân chính khiến làng nghề giấy dó dần lụi tàn. Thứ nhất, nguyên liệu chính để làm nghề là cây niệt nay đã không còn nhiều, tìm mua rất khó khăn. Thứ hai, không có lao động làm nghề, số còn làm nghề là những hộ cao tuổi, trung niên, việc truyền và giữ nghề không còn khả quan. Thứ ba, giá cả sản phẩm bấp bênh, nhu cầu thị trường sụt giảm, bà con không còn mặn mà.
Mai một theo năm tháng
Theo các hộ gia đình làm nghề, giấy dó ở xã Nghi Phong thường được sử dụng làm quạt giấy, cuốn hương trầm hoặc dán cá. Giá của mỗi tờ giấy dó là khoảng 4.000 đồng, nếu cả gia đình từ 2 đến 3 người cùng làm thì mỗi ngày chỉ được khoảng 80 đến 100 tờ, cho thu nhập khoảng 300.000 đến 400.000 đồng/ngày. Vậy nên các hộ dân chủ yếu tranh thủ lúc nông nhàn để làm giấy dó.
Những tấm giấy gió ra lò từ cách làm thủ công như vậy. Ảnh: ĐB
Theo ông Trần Nguyên Hòa, Trưởng phòng NNPTNT, UBND huyện Nghi Lộc cho biết: Xã hội càng phát triển, hiện đại hóa thì mặt hàng này dần yếu thế trên thị trường. Việc bà con chuyển đổi nghề cũng là điều bất khả kháng.
Giấy dó được phơi nắng mới tạo ra được những tấm giấy dó hoàn chỉnh. Ảnh: ĐB
Mặc dù vậy, huyện Nghi Lộc cũng như chính quyền xã Nghi Phong vẫn mong muốn bà con lưu giữ những ngành nghề truyền thống, không để mai một. Hàng năm, lãnh đạo huyện trực tiếp xuống thăm hỏi, động viên bà con và khi có các chính sách hỗ trợ sẽ luôn ưu tiên để người dân tiếp tục gắn bó với nghề.
Giá của mỗi tờ giấy dó chỉ khoảng 4.000 đồng. Ảnh: ĐB
Bà Hải, ông Ngại cũng như 4 hộ gia đình khác ở Nghi Phong đang cố gắng giữ lấy nghề truyền thống của địa phương sống cùng thời gian.
Bắc Vũ